PHAN VĂN TRỊ-
NHỮNG VẦN THƠ BÚT CHIẾN
*Lê Ngọc Thạc
*Lê Ngọc Thạc
G iữa thế kỷ XIX, lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc ta bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn
chống thực dân Pháp gần ṃ̉ột thế kỷ... Ở Nam bộ, năm 1862 thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông, đến năm 1867 chiếm
luôn ba tỉnh miền Tây và Nam kỳ lục tỉnh đã hoàn toàn rơi vào tay
giặc.
Cùng với phong trào chống Pháp mạnh
mẽ của các sĩ phu và nhân dân, một dòng văn học yêu nước ở Nam bộ
đã hình thành và phát triển với
những ngôi sao sáng như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu
Nghĩa, Thủ khoa Huân, Huỳnh Mẫn Đạt... Trên bầu trời sao ấy, Cử nhân
Phan Văn Trị là một trong những tên tuổi xuất sắc nhất. Cả đời mình,
ông đã sử dụng ngòi bút như vũ khí chống giặc và sự nghiệp sáng
tác của ông gắn liền cùng cuộc bút chiến hết sức đặc biệt với Tôn Thọ Tường.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin cùng quý thi hữu tìm hiểu một số bài thơ bút chiến
tiêu biểu của ông. Qua đó, chúng ta cùng cảm nhận và thêm trân trọng tấm
lòng, khí phách và tài năng của một nhà Nho yêu nước đất Nam kỳ lục
tỉnh.
I- VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI PHAN VĂN TRỊ (1830-1910):
Phan
Văn Trị sinh năm 1830 tại thôn Hưng Thạnh, huyện Bảo An, phủ Hoằng An, trấn Vĩnh Thanh
( nay là xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre). Khoảng
năm 1847, ông đến làng Hanh Thông, Gia Định trú ngụ nhà người thân để
học. Phan Văn Trị đỗ Cử Nhân khoa Kỷ Dậu, năm Tự Đức thứ 2 (1849), cùng khoa với Nguyễn Thông, nên thường được gọi là
Cử Trị.
Sau khi đỗ đạt, ông không ra làm quan mà
về dạy học ở làng Bình Cách (nay thuộc TX. Tân An, tỉnh Long An). Khi thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam bộ,
theo phong trào “tỵ địa”, ông chuyển về ở hẳn tại huyện Phong Điền
(Cần Thơ) dạy học, bốc thuốc và dùng thơ văn làm
vũ khí chống Pháp cùng bọn tay sai.
Đức độ và tài năng của Phan Văn Trị đã làm cho nhiều người
cảm phục. Trong đó có cai tổng Định Bảo là Lê Quang Chiểu xem ông như
bậc thầy, nên đã giới thiệu người em gái con cô con cậu là Đinh Thị
Thanh kết duyên cùng ông. Ông mất ngày 22.06.1910, thọ 80 tuổi. Hiện
nay, khu lưu niệm của ông được tôn tạo khang trang tại Thị trấn Phong Điền, huyện Phong Điền, TP. Cần
Thơ.
II- CUỘC BÚT CHIẾN VỚI TÔN
THỌ TƯỜNG:
1-
Tóm tắt cuộc bút
chiến
Cuộc bút chiến giữa Tôn Thọ Tường
và Phan Văn Trị diễn ra trên 10 năm, từ sau năm 1862 đến
trước 1877. Tuy nhiên, sôi động nhất có lẽ là từ sau năm 1862 đến 1867,
tức là sau khi Pháp chiếm xong ba tỉnh miền Đông Nam bộ đến trước khi
Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây còn lại. Nó đã lôi cuốn đông đảo sĩ
phu yêu nước vào cuộc như Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt...
Cuộc bút chiến là sự đấu tranh quyết liệt giữa hai ý thức
chính trị đối nghịch nhau. Phan Văn Trị là người phát ngôn của lực
lượng yêu nước, còn đại diện cho những kẻ bán nước cầu vinh là Tôn Thọ Tường.
Tôn Thọ Tường sinh năm 1825,
trong một gia đình có thế lực. Cha là Tôn Thọ Đức, tuần phù tỉnh
Bình Thuận; ông nội trước đây từng theo phò Nguyễn Ánh, có công to nên
được nhà Nguyễn thờ phụng. Mặc dù không đỗ đạt gì, nhưng công bằng
mà nói, Tôn Thọ Tường cũng có chút văn tài, từng tham gia Bạch Mai
thi xã ở Gia Định và để lại nhiều thơ văn. Khi thực dân Pháp xâm lược
nước ta, Tôn Thọ Tường là một trong nh̃ững người đầu tiên theo giặc. Y
được Pháp trọng dụng và cất nhắc dần lên chức Đốc Phủ Sứ. Tôn Thọ
Tường mất năm 1877 ở Hà Nội vì bệnh sốt rét.
Với tấm lòng yêu nước, lập luận sắc bén và đanh thép; Phan Văn Trị đã vạch trần toàn bộ lời
lẽ ngụy biện, đập tan luận điệu phản dân hại nước của Tôn Thọ
Tường. Thắng lợi của Phan Văn Trị phản ánh thắng lợi của nhân dân ta
đối với tư tưởng đầu hàng, phản động, tấn công vào tập đoàn tay sai
của thực dân Pháp.
2- Giới thiệu những bài
thơ bút chiến tiêu biểu:
BÀI 1:
TÔN PHU NHÂN QUY THỤC
(Bài
xướng)
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng
tiết gái Giang Đông
Lìa Ngô bịn rịn
chòm mây bạc
Về Hán trau tria
mảnh má hồng
Son phấn thà cam
dày gió bụi
Đá vàng chi để
thẹn non sông
Ai về nhắn với
Châu Công Cẩn
Thà mất lòng anh đặng bụng
chồng.
TÔN THỌ TƯỜNG
Tôn phu nhân là em gái của Tôn Quyền (vua Đông
Ngô). Vì tranh giành đất đai, Tôn Quyền theo kế Châu
Du (Châu Công Cẩn) mời Lưu Bị qua Giang Đông nói gả em gái để kết tình
lân bang, định dùng phục binh giết chết trong tiệc rượu. Thực hiện kế
của Khổng Minh, Lưu Bị sang đất Ngô. Sự việc đến tai Ngô Quốc Thái, mẹ
của Tôn Quyền. Biết đó là âm mưu xảo quyệt của con, bà mắng Tôn
Quyền đã dùng kế tiểu nhân. Nhận thấy Lưu Bị là người có đạo đức,
bà buộc Tôn Quyền phải giữ lời hứa và bà nhất quyết gả con gái cho
Lưu Bị. Vì vậy, Tôn phu nhân phải theo chồng về đất Thục. Câu chuyện lấy
trong Tam quốc chí. Tôn Thọ Tường xem việc y theo Pháp chẳng qua là chuyện tất nhiên
như Tôn phu nhân quy Thục mà thôi. Bài thơ là một lời tuyên bố dứt khoát
về lập trường theo giặc của y.
TÔN PHU NHÂN QUY THỤC
(Bài họa)
Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
Mặt giã trời chiều biệt cõi Đông
Khói tỏa vầng Ngô ùn sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cang thường nặng núi sông
Anh hỡi, Tôn Quyền anh có biết
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng!
PHAN VĂN
TRỊ
BÀI 2:
TỪ THỨ QUY TÀO
(Bài
xướng)
Thảo đâu
dám sánh kẻ cày voi
Muối xát lòng ai nấy mặn mòi
Giúp Hớn hãy nhiều trang cột cả
Về
Tào chi sá một cây còi
Bâng khuâng nhớ mẹ khôn nâng chén
Bịn rịn trông vua biếng giở roi
Chẳng đặng khôn Lưu thà dại Ngụy
Thân
này xin gát ngoại vòng thoi.
TÔN THỌ TƯỜNG
Từ Thứ là một trong những danh sĩ có tài. Buổi đầu Từ Thứ
giúp Lưu Bị đánh Tào Tháo. Tào Tháo dụ hàng không được, bèn bắt mẹ
Từ Thứ tống giam rồi giả mạo viết bức tâm thư, lời lẽ thống thiết
gởi cho Từ Thứ, bảo Từ Thứ về Tào. Ngỡ thư của mẹ thật, Từ Thứ
không cầm lòng được, liền bỏ Lưu Bị về với Tào Tháo. Mẹ Từ Thứ hay
tin, liền cắn lưỡi tự tử. Câu
chuyện lấy trong Tam quốc chí.
Mượn chuyện Từ Thứ, Tôn Thọ Tường muốn thanh minh rằng mình
theo Pháp chẳng qua là chuyện chẳng đặng đừng, chứ cái tình đối với
bạn bè cũ, cái nghĩa đối với đất
nước vẫn còn nặng. Vả lại, dân tộc còn nhiều anh hùng (trang cột cả), một thân tài hèn sức mọn như y theo Pháp nào có
đáng là bao (một cây còi)!
Trong bài này, Tôn Thọ Tường đã tận dụng lợi thế của người
xướng về cấu tứ và gieo vần, buộc người họa phải theo một khuôn khổ
nhất định, không có lối phát triển. Năm vần được gieo vô cùng hiểm
hóc (voi, mòi, còi, roi, thoi)
rất khó họa, cũng còn nhằm mục đích hạn chế số người tham gia phản
bác.
TỪ
THỨ QUY TÀO
(Bài họa)
Quá bị trên đầu nhát búa voi
Kinh luân đâu nữa để khoe mòi
Xăng văng ruổi Ngụy mây ùn đám
Dáo dác xa Lưu gió thổi còi
Đất Hứa nhớ thân sa giọt tủi
Thành Tương mến
chúa nhẹ tay roi
Về Tào miệng ngậm như bình kín
Trân trọng lời vàng đáng mấy thoi.
PHAN VĂN
TRỊ
BÀI 3:
BÀI TỰ
THUẬT THỨ
NHẤT
(Bài xướng)
Giang san ba tỉnh hãy còn
đây
Trời đất xui chi đến nỗi này
Chớp nhoáng
thẳng bon dây thép kéo
Mây tuôn đen
nghịt khói tàu bay
Xăng văng chậm
tính thương đôi chỗ
Khấp khởi riêng lo
biết những ngày
Miệng cọp hàm
rồng chưa dễ chọc
Khuyên đàn con
trẻ chớ thày lay.
TÔN THỌ TƯỜNG
Đây là bài đầu tiên trong
mười bài Tự thuật liên hoàn.
Đối với Tôn Thọ Tường, ba tỉnh miền Đông tuy bị Pháp chiếm, nhưng vẫn
chưa mất!!! Y ra sức quảng cáo cho văn
minh Pháp (đường sắt, đường dây điện, tàu thủy...) để hù dọa nhân dân
và lực lượng kháng chiến. Với kẻ địch hùng mạnh như thế thì không
thể đánh thắng được!
BÀI TỰ
THUẬT THỨ NHẤT
(Bài họa)
Hơn thua chưa
biết đó cùng đây
Chẳng đã nên
ta mới thế này
Bến Nghé
quản bao cơn lửa cháy
Cồn Rồng dầu
mặc bụi tro bay
Nuôi muông
giết thỏ còn chờ thuở
Bủa lưới săn
nai cũng có ngày
Đừng mượn hơi
hùm rung nhát khỉ
Lòng ta sắt đá há lung lay.
PHAN VĂN TRỊ
Qua ba bài được trích dẫn, chúng ta thấy Tôn
Thọ Tường hay mượn chuyện xưa, tích cũ của Trung Quốc, đưa chúng vào
thơ để
thanh minh cho hành vi theo giặc của mình. Nhưng tất cả những lời ngụy
biện ấy đều bị vạch trần, đưa ra ánh sáng. Với ba bài họa, Cụ Cử
Trị đã đẩy y vào chân tường, không còn lối thoát. Nhiều thế hệ nhân
dân Nam bộ nói riêng và cả nước nói chung đã từng ngưỡng mộ và
thuộc lòng những câu:
Về Tào miệng ngậm như bình kín
Trân trọng lời
vàng đáng mấy thoi.
(Từ Thứ quy Tào)
Anh hỡi, Tôn
Quyền anh có biết
Trai ngay thờ
chúa, gái thờ chồng.
(Tôn phu nhân quy Thục)
Đừng mượn hơi
hùm rung nhát khỉ
Lòng ta sắt
đá há lung lay.
(Bài Tự
thuật thứ nhất)
Ở
bài họa thứ 8 trong mười bài liên hoàn (thập thủ liên hoàn), Phan Văn Trị đã chua chát kết luận về Tôn Thọ
Tường như sau:
Đứa dại trót già đời cũng dại
Lựa là tuổi mới một đôi mươi!
(Bài Tự thuật thứ tám)
T óm lại, với cuộc bút chiến có một không hai trong giai đoạn thực dân
Pháp đang chiếm dần Nam kỳ Lục tỉnh; Phan Văn Trị đã quật ngã Tôn
Thọ Tường trước nhân dân và lịch sử. Thắng lợi này có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, tiếp thêm sức mạnh cho phong trào kháng chiến ở Nam
bộ nói riêng và cả nước nói chung. Những vần thơ đậm tính chiến đấu
đã đưa ông trở thành ngôi sao sáng của dòng văn học yêu nước chống
Pháp ở Nam bộ nửa sau thế kỷ XIX.
Lúc sinh thời, ông đã từng mơ ước:
Nhà Nước một mai xoay vận thới
Cõi Nam chung
hưởng hội thăng bình.
(Cảm hoài)
Nhưng tiếc thay, con tim
vĩ đại luôn thao thức vì vận nước ấy đã ngừng đập và ông đã lặng lẽ
nằm xuống vĩnh viễn bên dòng kênh Cái Tắc hiền hòa, thuộc huyện
Phong Điền (TP.Cần Thơ) khi quê hương chưa nở hoa độc
lập.
LÊ NGỌC THẠC
(PCN.CLB.Thơ Ca Mây Hồng TP.Cao Lãnh-Đồng Tháp)