Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật - Vissarion Grigoryevich Belinsky.
Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014
Thứ Tư, 3 tháng 12, 2014
Thứ Tư, 19 tháng 11, 2014
Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2014
Thứ Hai, 27 tháng 10, 2014
Chiếu thơ xướng họa 10.2014
THƠ VÀ BIỂN
Để chuyển tâm tình đến đảo thương
Lịch sử vàng son ngời tổ quốc
Lòng dân sắt đá thắm can trường
Văn chương thắp sáng hồn dân tộc
Chí khí phủ đầy sóng đại dương
Tiếp bước tiền nhân gìn giữ nước
Sẵn sàng đâu ngại trước binh cường.
Minh Chiếu
(Chi hội Thơ Đường luật Cao Lãnh-Đồng Tháp)
CÂU ĐƯỜNG LUẬT CHO BIỂN (Bài họa)
G ửi biển vần thơ dệt luật Đường
Ấm từng nét chữ lửa yêu thương
Quê nhà vẫn thắp vầng trăng sáng
Biên đảo nên soi chí dặm trường
Như Nguyệt nước xuôi về lãnh hải
Bạch Đằng sóng vỗ gọi trùng dương
Nhớ thêm lịch sử màu chân lý
Chính nghĩa nghìn năm thắng bạo cường.
Lê Ngọc Thạc
Thứ Tư, 15 tháng 10, 2014
Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2014
Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2014
Sáng tác mới 10.2014
Baøi thô cuoäc ñôøi
* Tặng bạn, giáo viên Văn vừa nghỉ hưu.
T hời gian trôi đi
Trên mái đầu anh nhuốm bạc
Kính cận dầy thêm
Thao thức bao đêm
Nghề thầy trăn trở
Bóng liêu xiêu oằn nặng một đời người.
Trang giáo án cũ càng
Bài thơ còn dang dở
Anh chia tay mái trường…
Học trò nhớ anh, nhớ ngày xưa cô Tấm
Hiểu nỗi đau thân Kiều, hiểu giếng ngọc Mỵ Châu
Đâu Thạch Sanh, đâu Lý Thông
Giữa cuộc đời dâu bể
Câu ca dao nghiêng nghiêng những cánh cò…
Các em lớn lên bên cuộc đời thầy ngắn lại
Chúng sang đò, anh lặng lẽ bến sông xưa.
Thời gian trôi di
Như cây bàng sân trường mỗi mùa thay lá
Nhưng có một điều bất tử:
Trang giáo án cũ càng
Và bài thơ cuộc đời anh đã viết…
Leâ Ngoïc Thaïc
Thứ Năm, 18 tháng 9, 2014
Thứ Tư, 10 tháng 9, 2014
Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2014
Chiếu thơ xướng họa 09.2014
TÔ loøng
B ập bềnh thuyền nhỏ ngược dòng Tương
Khuất nẻo người đi quạnh
phố phường
Hiu hắt mom sông sầu
khóm liễu
Lững lờ bến nước vọng cung thương
Lững lờ bến nước vọng cung thương
Xót xa kỷ niệm tình ly
cách
Chếnh choáng hoàng hôn
nỗi đoạn trường
Mây trắng về đâu cho
nhắn gửi
Tơ lòng ngày ấy mãi còn
vương!
THIÊN
THANH NGUYÊN
(CH. Thơ Đường luật Cao Lãnh-Đồng Tháp)
Gôûi ngöôøi cuoái soâng
(Bài họa)
S ông Tiền, nay đã hóa sông Tương!
Để kẻ đầu thôn,
kẻ cuối phường
Điên điển âm
thầm ru cánh gió
Lục bình trăn
trở gửi niềm thương
Hạt yêu đỏ nặng
từng cơn lũ
Sợi nhớ dài theo
mỗi dặm trường
Nhìn nước về
xuôi ai có hiểu
Xa người, sóng
bạc trĩu sầu vương?!
Thứ Năm, 4 tháng 9, 2014
Thứ Ba, 2 tháng 9, 2014
Thứ Năm, 21 tháng 8, 2014
Thứ Sáu, 8 tháng 8, 2014
Thứ Tư, 23 tháng 7, 2014
Diễn đàn văn học 07.2014
PHAN VĂN TRỊ-
NHỮNG VẦN THƠ BÚT CHIẾN
*Lê Ngọc Thạc
*Lê Ngọc Thạc
G iữa thế kỷ XIX, lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc ta bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn
chống thực dân Pháp gần ṃ̉ột thế kỷ... Ở Nam bộ, năm 1862 thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông, đến năm 1867 chiếm
luôn ba tỉnh miền Tây và Nam kỳ lục tỉnh đã hoàn toàn rơi vào tay
giặc.
Cùng với phong trào chống Pháp mạnh
mẽ của các sĩ phu và nhân dân, một dòng văn học yêu nước ở Nam bộ
đã hình thành và phát triển với
những ngôi sao sáng như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu
Nghĩa, Thủ khoa Huân, Huỳnh Mẫn Đạt... Trên bầu trời sao ấy, Cử nhân
Phan Văn Trị là một trong những tên tuổi xuất sắc nhất. Cả đời mình,
ông đã sử dụng ngòi bút như vũ khí chống giặc và sự nghiệp sáng
tác của ông gắn liền cùng cuộc bút chiến hết sức đặc biệt với Tôn Thọ Tường.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin cùng quý thi hữu tìm hiểu một số bài thơ bút chiến
tiêu biểu của ông. Qua đó, chúng ta cùng cảm nhận và thêm trân trọng tấm
lòng, khí phách và tài năng của một nhà Nho yêu nước đất Nam kỳ lục
tỉnh.
I- VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI PHAN VĂN TRỊ (1830-1910):
Phan
Văn Trị sinh năm 1830 tại thôn Hưng Thạnh, huyện Bảo An, phủ Hoằng An, trấn Vĩnh Thanh
( nay là xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre). Khoảng
năm 1847, ông đến làng Hanh Thông, Gia Định trú ngụ nhà người thân để
học. Phan Văn Trị đỗ Cử Nhân khoa Kỷ Dậu, năm Tự Đức thứ 2 (1849), cùng khoa với Nguyễn Thông, nên thường được gọi là
Cử Trị.
Sau khi đỗ đạt, ông không ra làm quan mà
về dạy học ở làng Bình Cách (nay thuộc TX. Tân An, tỉnh Long An). Khi thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam bộ,
theo phong trào “tỵ địa”, ông chuyển về ở hẳn tại huyện Phong Điền
(Cần Thơ) dạy học, bốc thuốc và dùng thơ văn làm
vũ khí chống Pháp cùng bọn tay sai.
Đức độ và tài năng của Phan Văn Trị đã làm cho nhiều người
cảm phục. Trong đó có cai tổng Định Bảo là Lê Quang Chiểu xem ông như
bậc thầy, nên đã giới thiệu người em gái con cô con cậu là Đinh Thị
Thanh kết duyên cùng ông. Ông mất ngày 22.06.1910, thọ 80 tuổi. Hiện
nay, khu lưu niệm của ông được tôn tạo khang trang tại Thị trấn Phong Điền, huyện Phong Điền, TP. Cần
Thơ.
II- CUỘC BÚT CHIẾN VỚI TÔN
THỌ TƯỜNG:
1-
Tóm tắt cuộc bút
chiến
Cuộc bút chiến giữa Tôn Thọ Tường
và Phan Văn Trị diễn ra trên 10 năm, từ sau năm 1862 đến
trước 1877. Tuy nhiên, sôi động nhất có lẽ là từ sau năm 1862 đến 1867,
tức là sau khi Pháp chiếm xong ba tỉnh miền Đông Nam bộ đến trước khi
Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây còn lại. Nó đã lôi cuốn đông đảo sĩ
phu yêu nước vào cuộc như Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt...
Cuộc bút chiến là sự đấu tranh quyết liệt giữa hai ý thức
chính trị đối nghịch nhau. Phan Văn Trị là người phát ngôn của lực
lượng yêu nước, còn đại diện cho những kẻ bán nước cầu vinh là Tôn Thọ Tường.
Tôn Thọ Tường sinh năm 1825,
trong một gia đình có thế lực. Cha là Tôn Thọ Đức, tuần phù tỉnh
Bình Thuận; ông nội trước đây từng theo phò Nguyễn Ánh, có công to nên
được nhà Nguyễn thờ phụng. Mặc dù không đỗ đạt gì, nhưng công bằng
mà nói, Tôn Thọ Tường cũng có chút văn tài, từng tham gia Bạch Mai
thi xã ở Gia Định và để lại nhiều thơ văn. Khi thực dân Pháp xâm lược
nước ta, Tôn Thọ Tường là một trong nh̃ững người đầu tiên theo giặc. Y
được Pháp trọng dụng và cất nhắc dần lên chức Đốc Phủ Sứ. Tôn Thọ
Tường mất năm 1877 ở Hà Nội vì bệnh sốt rét.
Với tấm lòng yêu nước, lập luận sắc bén và đanh thép; Phan Văn Trị đã vạch trần toàn bộ lời
lẽ ngụy biện, đập tan luận điệu phản dân hại nước của Tôn Thọ
Tường. Thắng lợi của Phan Văn Trị phản ánh thắng lợi của nhân dân ta
đối với tư tưởng đầu hàng, phản động, tấn công vào tập đoàn tay sai
của thực dân Pháp.
2- Giới thiệu những bài
thơ bút chiến tiêu biểu:
BÀI 1:
TÔN PHU NHÂN QUY THỤC
(Bài
xướng)
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng
tiết gái Giang Đông
Lìa Ngô bịn rịn
chòm mây bạc
Về Hán trau tria
mảnh má hồng
Son phấn thà cam
dày gió bụi
Đá vàng chi để
thẹn non sông
Ai về nhắn với
Châu Công Cẩn
Thà mất lòng anh đặng bụng
chồng.
TÔN THỌ TƯỜNG
Tôn phu nhân là em gái của Tôn Quyền (vua Đông
Ngô). Vì tranh giành đất đai, Tôn Quyền theo kế Châu
Du (Châu Công Cẩn) mời Lưu Bị qua Giang Đông nói gả em gái để kết tình
lân bang, định dùng phục binh giết chết trong tiệc rượu. Thực hiện kế
của Khổng Minh, Lưu Bị sang đất Ngô. Sự việc đến tai Ngô Quốc Thái, mẹ
của Tôn Quyền. Biết đó là âm mưu xảo quyệt của con, bà mắng Tôn
Quyền đã dùng kế tiểu nhân. Nhận thấy Lưu Bị là người có đạo đức,
bà buộc Tôn Quyền phải giữ lời hứa và bà nhất quyết gả con gái cho
Lưu Bị. Vì vậy, Tôn phu nhân phải theo chồng về đất Thục. Câu chuyện lấy
trong Tam quốc chí. Tôn Thọ Tường xem việc y theo Pháp chẳng qua là chuyện tất nhiên
như Tôn phu nhân quy Thục mà thôi. Bài thơ là một lời tuyên bố dứt khoát
về lập trường theo giặc của y.
TÔN PHU NHÂN QUY THỤC
(Bài họa)
Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
Mặt giã trời chiều biệt cõi Đông
Khói tỏa vầng Ngô ùn sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cang thường nặng núi sông
Anh hỡi, Tôn Quyền anh có biết
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng!
PHAN VĂN
TRỊ
BÀI 2:
TỪ THỨ QUY TÀO
(Bài
xướng)
Thảo đâu
dám sánh kẻ cày voi
Muối xát lòng ai nấy mặn mòi
Giúp Hớn hãy nhiều trang cột cả
Về
Tào chi sá một cây còi
Bâng khuâng nhớ mẹ khôn nâng chén
Bịn rịn trông vua biếng giở roi
Chẳng đặng khôn Lưu thà dại Ngụy
Thân
này xin gát ngoại vòng thoi.
TÔN THỌ TƯỜNG
Từ Thứ là một trong những danh sĩ có tài. Buổi đầu Từ Thứ
giúp Lưu Bị đánh Tào Tháo. Tào Tháo dụ hàng không được, bèn bắt mẹ
Từ Thứ tống giam rồi giả mạo viết bức tâm thư, lời lẽ thống thiết
gởi cho Từ Thứ, bảo Từ Thứ về Tào. Ngỡ thư của mẹ thật, Từ Thứ
không cầm lòng được, liền bỏ Lưu Bị về với Tào Tháo. Mẹ Từ Thứ hay
tin, liền cắn lưỡi tự tử. Câu
chuyện lấy trong Tam quốc chí.
Mượn chuyện Từ Thứ, Tôn Thọ Tường muốn thanh minh rằng mình
theo Pháp chẳng qua là chuyện chẳng đặng đừng, chứ cái tình đối với
bạn bè cũ, cái nghĩa đối với đất
nước vẫn còn nặng. Vả lại, dân tộc còn nhiều anh hùng (trang cột cả), một thân tài hèn sức mọn như y theo Pháp nào có
đáng là bao (một cây còi)!
Trong bài này, Tôn Thọ Tường đã tận dụng lợi thế của người
xướng về cấu tứ và gieo vần, buộc người họa phải theo một khuôn khổ
nhất định, không có lối phát triển. Năm vần được gieo vô cùng hiểm
hóc (voi, mòi, còi, roi, thoi)
rất khó họa, cũng còn nhằm mục đích hạn chế số người tham gia phản
bác.
TỪ
THỨ QUY TÀO
(Bài họa)
Quá bị trên đầu nhát búa voi
Kinh luân đâu nữa để khoe mòi
Xăng văng ruổi Ngụy mây ùn đám
Dáo dác xa Lưu gió thổi còi
Đất Hứa nhớ thân sa giọt tủi
Thành Tương mến
chúa nhẹ tay roi
Về Tào miệng ngậm như bình kín
Trân trọng lời vàng đáng mấy thoi.
PHAN VĂN
TRỊ
BÀI 3:
BÀI TỰ
THUẬT THỨ
NHẤT
(Bài xướng)
Giang san ba tỉnh hãy còn
đây
Trời đất xui chi đến nỗi này
Chớp nhoáng
thẳng bon dây thép kéo
Mây tuôn đen
nghịt khói tàu bay
Xăng văng chậm
tính thương đôi chỗ
Khấp khởi riêng lo
biết những ngày
Miệng cọp hàm
rồng chưa dễ chọc
Khuyên đàn con
trẻ chớ thày lay.
TÔN THỌ TƯỜNG
Đây là bài đầu tiên trong
mười bài Tự thuật liên hoàn.
Đối với Tôn Thọ Tường, ba tỉnh miền Đông tuy bị Pháp chiếm, nhưng vẫn
chưa mất!!! Y ra sức quảng cáo cho văn
minh Pháp (đường sắt, đường dây điện, tàu thủy...) để hù dọa nhân dân
và lực lượng kháng chiến. Với kẻ địch hùng mạnh như thế thì không
thể đánh thắng được!
BÀI TỰ
THUẬT THỨ NHẤT
(Bài họa)
Hơn thua chưa
biết đó cùng đây
Chẳng đã nên
ta mới thế này
Bến Nghé
quản bao cơn lửa cháy
Cồn Rồng dầu
mặc bụi tro bay
Nuôi muông
giết thỏ còn chờ thuở
Bủa lưới săn
nai cũng có ngày
Đừng mượn hơi
hùm rung nhát khỉ
Lòng ta sắt đá há lung lay.
PHAN VĂN TRỊ
Qua ba bài được trích dẫn, chúng ta thấy Tôn
Thọ Tường hay mượn chuyện xưa, tích cũ của Trung Quốc, đưa chúng vào
thơ để
thanh minh cho hành vi theo giặc của mình. Nhưng tất cả những lời ngụy
biện ấy đều bị vạch trần, đưa ra ánh sáng. Với ba bài họa, Cụ Cử
Trị đã đẩy y vào chân tường, không còn lối thoát. Nhiều thế hệ nhân
dân Nam bộ nói riêng và cả nước nói chung đã từng ngưỡng mộ và
thuộc lòng những câu:
Về Tào miệng ngậm như bình kín
Trân trọng lời
vàng đáng mấy thoi.
(Từ Thứ quy Tào)
Anh hỡi, Tôn
Quyền anh có biết
Trai ngay thờ
chúa, gái thờ chồng.
(Tôn phu nhân quy Thục)
Đừng mượn hơi
hùm rung nhát khỉ
Lòng ta sắt
đá há lung lay.
(Bài Tự
thuật thứ nhất)
Ở
bài họa thứ 8 trong mười bài liên hoàn (thập thủ liên hoàn), Phan Văn Trị đã chua chát kết luận về Tôn Thọ
Tường như sau:
Đứa dại trót già đời cũng dại
Lựa là tuổi mới một đôi mươi!
(Bài Tự thuật thứ tám)
T óm lại, với cuộc bút chiến có một không hai trong giai đoạn thực dân
Pháp đang chiếm dần Nam kỳ Lục tỉnh; Phan Văn Trị đã quật ngã Tôn
Thọ Tường trước nhân dân và lịch sử. Thắng lợi này có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, tiếp thêm sức mạnh cho phong trào kháng chiến ở Nam
bộ nói riêng và cả nước nói chung. Những vần thơ đậm tính chiến đấu
đã đưa ông trở thành ngôi sao sáng của dòng văn học yêu nước chống
Pháp ở Nam bộ nửa sau thế kỷ XIX.
Lúc sinh thời, ông đã từng mơ ước:
Nhà Nước một mai xoay vận thới
Cõi Nam chung
hưởng hội thăng bình.
(Cảm hoài)
Nhưng tiếc thay, con tim
vĩ đại luôn thao thức vì vận nước ấy đã ngừng đập và ông đã lặng lẽ
nằm xuống vĩnh viễn bên dòng kênh Cái Tắc hiền hòa, thuộc huyện
Phong Điền (TP.Cần Thơ) khi quê hương chưa nở hoa độc
lập.
LÊ NGỌC THẠC
(PCN.CLB.Thơ Ca Mây Hồng TP.Cao Lãnh-Đồng Tháp)
Chủ Nhật, 29 tháng 6, 2014
Thứ Bảy, 28 tháng 6, 2014
Thứ Tư, 25 tháng 6, 2014
Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2014
Thứ Hai, 12 tháng 5, 2014
Thứ Ba, 6 tháng 5, 2014
Thứ Hai, 21 tháng 4, 2014
Thứ Ba, 1 tháng 4, 2014
Diễn đàn văn học 04.2014
HÀN MẶC TỬ
VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT
V ăn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945
đã đạt được những thành tựu vô cùng rực rỡ và xuất hiện nhiều tên tuổi lớn, trong đó có nhà thơ Hàn Mặc
Tử. Ông là nhà thơ nổi tiếng, là một trong những người khởi đầu cho
trào lưu thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam. Thơ ông được đánh giá rất
cao, một số bài được đưa vào sách giáo khoa để giảng dạy trong nhà
trường như: Đây thôn Vỹ Dạ, Mùa xuân chín...
Thế nhưng, khi nói về Hàn Mặc
Tử, người ta thường nhắc đến những bài thơ mới theo khuynh hướng lãng
mạn, rồi đến tượng trưng, siêu thực... mà ít đề cập đến mảng thơ
đường luật của ông.
Trong phạm vi bài viết này,
chúng tôi muốn cùng quý thi hữu tìm hiểu thêm- tất nhiên chỉ là bước
đầu- một số bài thơ đường luật của Hàn Mặc Tử. Từ đó, chúng ta có
thể hình dung một cách đầy đủ hơn con đường thơ của ông, một thi sĩ
tài hoa nhưng bạc mệnh.
I- VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI HÀN MẶC TỬ:
Hàn Mặc Tử (1912-1940)
tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22.09.1912 tại làng Lệ Mỹ,
TX.Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Ông lớn lên ở Qui Nhơn (Tỉnh Bình Định)
trong một gia đình theo Công giáo.
Thân phụ của ông là Nguyễn Văn
Toản, làm thông phán nên thường di chuyển nhiều nơi, do đó Hàn Mặc Tử
cũng theo cha và học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ (1920),
Qui Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923), trường dòng Pellerin Huế (1926)…
Hàn Mặc Tử có
năng khiếu thơ từ rất sớm, khi mới 14 tuổi, từng đạt giải nhất trong cuộc thi thơ ở một thi xã. Ông đã từng gặp cụ Phan
Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá nhiều từ nhà chí sĩ này. Thơ ông
được cụ Phan giới thiệu lên báo và họa vận 3 bài đường luật. Cũng
do mối quan hệ với cụ Phan Bội Châu nên ông đã bị xóa tên khỏi danh
sách đi du học ở Pháp.
Hàn Mặc Tử có thời gian làm
ở Sở Đạc điền Qui Nhơn (Tỉnh Bình Định), sau đó vào Sài Gòn lập
nghiệp. Đến Sài Gòn, ông phụ trách trang Thơ báo Công Luận, phụ trách
trang Văn báo Sài Gòn. Thơ ông đăng nhiều ở các báo: Phụ nữ Tân văn,
Tiếng dân, Công luận, Tân thời, Đông dương tạp chí, Người mới, Trong
khuê phòng, Sài Gòn...
Khi biết mình mắc bệnh phong,
một căn bênh nan y lúc bấy giờ; ông đã bỏ tất cả và trở về Qui Nhơn.
Hàn Mặc Tử thuê một chòi tranh ở Gò Bồi (cách Qui Nhơn 15km) để ở
và tuyệt giao với bạn bè. Tháng 9.1940, ông vào Bệnh viện phong Quy
Hòa điều trị, mang số bệnh nhân 1134. Hàn Mặc Tử đã qua đời tại đây
ngày 11.11.1940, khi mới 28 tuổi.
Cuộc đời Hàn Mặc Tử được biết đến
với nhiều mối tình. Có những người pḥu nữ ông đã gặp mặt, có
người ông chỉ giao tiếp qua thư từ. Có thể kể đến như: Hoàng Cúc,
Mộng Cầm, Mai Đình, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện...
Những mối tình đó đã để lại nhiều dấu ấn trong các tác phẩm của
ông.
- Các bút danh: Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh, Hàn Mạc Tử
(sau đổi thành Hàn Mặc Từ).
- Các tác phẩm: Gồm các tập thơ như Lệ Thanh thi tập, Gái quê, Đau thương, Xuân
như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên (2 vở kịch thơ), Chơi
giữa mùa trăng (thơ, văn xuôi)…
II- THƠ ĐƯỜNG LUẬT CỦA HÀN MẶC TỬ:
Thế giới thơ của Hàn Mặc Tử khá phức tạp. Ông đã đi từ thơ Đường luật cổ điển sang thơ mới theo khuynh hướng lãng mạn, rồi đến tượng trưng, siêu thực. Giai đoạn đầu, cảm xúc thơ trong sáng, lời thơ nhẹ nhàng, tứ thơ bình dị, chan chứa tình quê...Nhưng càng về sau, thơ ông đầy những cảm xúc lạ lùng, kinh dị, huyền bí thậm chí điên loạn và đượm màu sắc tôn giáo. Những đau đớn do căn bệnh hiểm nghèo hành hạ thể xác và tâm hồn đã để lại dấu ấn rõ rệt trong tác phẩm của ông.
Thơ đường luật của Hàn Mặc Tử được
sáng tác ở giai đoạn đầu, tập hợp chủ yếu trong Lệ Thanh thi tập.
Chúng tôi xin giới thiệu một số bài sau đây:
1- NĂM BÀI THƠ ĐƯỜNG LUẬT:
CHUYẾN ĐÒ NGANG THỨC KHUYA
(Đêm không ngủ)
Không hẹn hò sao gặp gỡ đây? Non sông bốn mặt ngủ mơ màng
Người thời như tỉnh, kẻ như say Thức chỉ mình ta dạ chẳng an
Trong veo làn nước soi đôi mặt Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Xa tít quê nhà trỏ một tay Gió thu lọt cửa cọ mài chăn
Tâm sự mới trao bờ đã đến Khóc giùm thân thế hoa rơi lệ
Nỗi niềm chưa cạn khách về
ngay Buồn giúp công danh dế dạo đàn
Ba sinh duyên nợ âu là thế Trỗi dậy nôm na vài điệu cũ
Một chuyến đò đưa nghĩa một
ngày. Năm canh tâm sự vẫn chưa tàn.
CHÙA HOANG BUỒN THU
Chùa không sư tụng cảnh buồn teo Ấp úng không ra được nửa lời
Xác Phật còn đây chuỗi Phật
đâu? Tình thu bi thiết lắm thu ơi!
Réo rắt cành thông thay kệ đọc Vội
vàng cánh nhạn bay đi trớt
Lập lòe bóng đóm thế đèn treo Hiu hắt hơi may thoảng lại
rồi
Hương sầu khói lạnh nằm ngơ
ngác Nằm gắng đã không thành mộng được
Vách chán đêm suông đứng dãi
dầu Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi
Rứa cũng trơ gan cùng tuế
nguyệt Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt
Bên thềm khắc khoải tiếng quyên
kêu. Chỉ
có thông kia chịu với trời.
GÁI Ở CHÙA Giới thiệu bài họa Thức khuya
của cụ
Phan Bội Châu
Rừng Thiền thấp thoáng dáng
quần thoa Chợ lợi trường danh tí chẳng
màng
Khuê các trâm anh cũng rứa
à? Sao ăn không ngọt, ngủ không an
Mùi tục chưa chi mà vội
chán Trăm năm ngán đó tuồng dâu bể
Cuộc đời mới thế đã lo xa Muôn họ nhờ ai bạn chiếu chăn
Lạt mùi son phấn say mùi
đạo Cửa
sấm gớm ghê người đánh trống
Chán cảnh phồn hoa mến cảnh
chùa Tai trâu mỏi mệt khách đưa đàn
Dì Nguyệt trớ trêu lòng dạ
thiểm Lòng sen đằng đẵng tơ sen
vướng
Trăm năm nỡ để thiệt thòi hoa! Mưa gió bao phen gội chẳng
tàn.
2- ĐÔI ĐIỀU CẢM NHẬN:
- Về bài thơ Chuyến đò ngang: Có lẽ không ai nghĩ là của một cậu bé 14
tuổi đã viết sau những chuyến qua đò đi học. Cảm
xúc thơ thật mới lạ, trong sáng nên khi đọc ta cảm thấy ý thơ không
bị nhốt trong cái lồng thơ quen thuộc và cũ kỹ. Hai câu:
Trong
veo làn nước soi đôi mặt
Xa tít quê nhà trỏ một tay...
đã vẽ ra một không gian mênh
mông, xa mờ từ con đò ngang đưa cậu bé mỗi ngày đi học. Con đò tuổi
thơ ngày ấy đã dự báo một tài năng xuất chúng.
- Ba bài thơ Thức khuya, Chùa hoang, Gái ở chùa được đăng trên Thực
nghiệp dân báo năm 1931. Hàn Mặc Tử ( bút hiệu lúc
bấy giờ là Phong Trần ) mới 19 tuổi. Cụ Phan Bội Châu đã khen ngợi: “Từ về nước đến nay, được xem nhiều thơ văn quốc âm, song chưa gặp
được bài thơ nào hay đến thế. Hồng Nam nhạn Bắc, ước ao có ngày gặp
gỡ để bắt tay nhau cười to một tiếng, ấy là thỏa hồn thơ tôi đó!”
- Trong thơ đường luật của Hàn Mặc Tử, chúng ta thấy phảng phất khẩu khí
và giọng điệu “ưu thời mẫn thế” kiểu như
Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Tú Xương ...
Non sông bốn mặt ngủ mơ màng
Thức chỉ mình ta dạ chẳng
an...
Khóc giùm thân thế hoa rơi lệ
Buồn giúp công danh dế dạo
đàn...
(Thức
khuya)
Cũng giống như tâm sự
của các nhà nho yêu nước trước cảnh quê hương chìm trong bóng đêm nô
lệ, luôn trăn trở, băn khoăn cùng thế sự.
Nằm gắng đã không thành mộng được
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn
thôi...
(Buồn thu)
Khắc khoải năm canh quyên nhớ nước…
Giấc điệp mơ màng vùng trỗi
dậy
Vừa toan tính đó có ai hay...
(Canh khuya cảm tác-Không giới thiệu
toàn bài)
- Ông có cách nhìn đời rất
nhân văn, luôn sống và cảm thông với mọi người, cả những người con
gái ở chùa.
Dì
Nguyệt trớ trêu lòng dạ thiểm
Trăm năm nỡ để thiệt thòi
hoa!
(Gái ở chùa)
Khó có thể tin rằng, Hàn Mặc Tử khi ấy mới 19 tuổi, cái tuổi mà thời đó người ta còn xem là
thiếu niên.
- Về cách sử dụng ngôn ngữ:
Tuy hình thức thơ cũ, nhưng ông đã sử dụng những từ ngữ mang nội dung
hoàn toàn mới.
Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài
chăn...
(Thức
khuya)
Với những từ leo song, sờ sẫm, lọt cửa, cọ mài..., Hàn
Mặc Tử đã mang đến cho trăng gió, gối chăn- vốn là những hình ảnh
sáo mòn- một nội hàm hoàn toàn mới: Sống động, gợi cảm, xác thịt
hơn... Ông đã đem thơ bước sang một giai đoạn mới bằng những câu thơ
hoàn toàn mang hơi thở lạ, thoát khỏi vòng luân lý, đạo đức của
những năm 30 thế kỷ trước.
Réo
rắt cành thông thay kệ đọc
Lập lòe bóng đóm thế đèn
treo
Hương sầu khói lạnh nằm ngơ ngác
Vách chán đêm suông đứng dãi dầu...
(Chùa hoang)
Những từ réo rắt, lập lòe, bóng đóm, hương
sầu, khói lạnh, vách chán, đêm suông, nằm ngơ ngác...đã gợi cái
vắng lặng, khuya khoắt của một xóm thanh lâu hơn là cảnh thanh tịnh,
đầy vẻ từ bi của nhà chùa! Cảnh chùa đã hoang, lại thêm không sư nhưng còn có Xác Phật, thật
là tinh quái và phạm thượng biết bao! Có nhà nghiên cứu cho đây
là sự phạm thượng của một thiên tài. Hàn Mặc Tử đã làm một
cuộc cách mạng ngôn từ và tư tưởng như vậy trong thơ đường luật.
Nhìn chung, số
lượng thơ đường luật của Hàn Mặc Tử không nhiều; nhưng đây lại là
cột mốc quan trọng trên con đường thơ của một thiên tài. Ngay từ những
bài thơ đường luật chặt chẽ về niêm luật, chúng ta đã thấy xuất
hiện những nụ mầm mới lạ về ngôn từ và tư tưởng. Những nụ mầm ấy
đã nở thành những đóa hoa lung linh hương sắc ở giai đoạn tiếp theo
và để lại cho đời những thi phẩm sống mãi với thời gian.
x
x
x
Tôi đã về thăm đất Qui Nhơn, đứng lặng
bên mộ Hàn Mặc Tử trên đồi Thi Nhân (Ghềnh Ráng), ngậm ngùi tiếc
thương một con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Ông ra đi khi tuổi đời còn
quá trẻ và sự nghiệp văn chương cũng vừa mới bắt đầu.Thế nhưng, qua
chặng đường thơ khoảng 10 năm của mình, thi sĩ đã trở thành
một trong những người khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt
Nam với những vần thơ xuất thần, bất hủ. Không chỉ có vậy, ông còn
để lại trong trái tim của hàng triệu người hâm mộ cả nước sự nuối
tiếc và tình cảm mến thương vô hạn.
Xin mượn lời nhận xét sau đây của nhà
thơ Chế Lan Viên để thay lời kết:
“Mai sau, những cái
tầm thường, mực thước kia sẽ biến đi và còn lại của cái thời kỳ
này chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử.” (Chế Lan Viên, Báo Người mới số 5,
23.11.1940)
LÊ NGỌC THẠC
PCN.CLB.Thơ Ca Mây hồng TP. Cao
Lãnh-Đồng Tháp
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)