N gày 02.09.1969, trái tim vĩ đại của Chủ Tịch Hồ Chí
Minh đã ngừng đập. Trước khi về cõi vĩnh hằng, Người để lại cho toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân ta một bản di chúc vô cùng quan trọng .
Trong phần đầu của bản di chúc, Bác Hồ
đã viết :
Ông Đỗ Phủ là người làm thơ rất nổi tiếng ở
Trung Quốc đời nhà Đường, có câu rằng “
Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, nghĩa là “Người thọ bảy mươi, xưa nay hiếm”.
Năm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm” nhưng tinh
thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây …”
Trong phạm vi bài viết này, tôi không có ý định phân
tích những giá trị tư tưởng của bản di chúc vì điều ấy vô cùng to lớn. Ở đây,
người viết chỉ muốn đi tìm lại xuất xứ câu thơ mà Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã trích
dẫn . Đó là “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, đồng thời tìm hiểu đôi nét về
cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của Đỗ Phủ, người được thiên hạ xưng tụng là Thi
Thánh .
I- VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI ĐỖ PHỦ :
Đỗ Phủ ( 712-770 ) là nhà thơ rất
nổi tiếng đời nhà Đường. Cùng với Lý Bạch và Bạch Cư Dị, ông được xem là một
trong ba nhà thơ vĩ đại nhất của Trung Quốc .
Ông xuất thân trong một gia đình
quý tộc đã sa sút, sinh năm 712 tại làng Đỗ Lăng, phủ Kinh Triệu, tỉnh Thiểm
Tây. Ông nội là Đỗ Thẩm Ngôn, một nhà thơ nổi tiêng thời Sơ Đường ; cha là Đỗ
Nhàn có làm quan .
- Từ lúc chào đời cho đến năm 746
( 35 năm ) : Đỗ Phủ sống giữa thời kỳ phồn vinh của xã hội phong kiến đời
Đường. Ông bắt đầu sáng tác năm 7 tuổi và đến năm 14 tuổi đã trở thành nhà thơ
trẻ được các bậc đàn anh mến phục. Năm 744, Đỗ Phủ gặp nhà thơ Lý Bạch tại Lạc
Dương và hai người đã kết bạn vong niên ( Lý Bạch lớn hơn Đỗ Phủ 11 tuổi ) .
- Từ năm 746 đến 755 : Đỗ Phủ vô
cùng lận đận trên con đường công danh,
bị gian thần hãm hại nên dù có tài ông cũng chỉ làm chức quan nhỏ( Công Bộ Viên
Ngoại Lang ). Cuộc sống gian nan cực khổ trong thời kỳ này đã khiến Đỗ Phủ sáng
tác hàng loạt bài thơ giàu tính hiện thực làm xúc động lòng người . Thơ ca của
ông đã chuyển sang một giai đoạn mới : Chủ nghĩa hiện thực phê phán .
Tháng 11 năm 755, Tiết Độ Sứ An Lộc
Sơn nổi loạn đem quân cướp ngôi nhà Đường và đất nước chìm trong khói lửa chiến
tranh suốt nhiều năm trời .
- Tháng 7 năm 759, Đỗ Phủ từ quan
và phải chạy loạn nhiều nơi, cuộc sống rất vất vả, gian nan. Qua bao năm lưu
lạc, giờ đây tuổi già sức yếu, ông thường xuyên bệnh hoạn. Cuộc sống đói rét
bệnh tật cứ dày vò nhà thơ mãi. Mùa đông năm 770, Đỗ Phủ nhắm mắt lìa đời trong
chiếc thuyền rách nát lênh đênh trên sông Tương, lúc 59 tuổi.
II- VỀ SỰ NGHIỆP THƠ CA :
Đỗ Phủ đã để lại cho đời sau hơn
1400 bài thơ, chia thành 2 loại :
-
Cổ thể thi : Là loại thơ tự do, gồm 416 bài .
-
Cận thể thi : Là loại thơ cách luật, gồm 1037 bài .
Thơ ông chính là nỗi đau của bản
thân mình hòa chung với nỗi đau của nhân dân, của đất nước. Đọc thơ Đỗ Phủ, ta
thấy được diện mạo xã hội đời Đường từ thời kỳ hưng thịnh đến suy vong, đặc
biệt là trong hơn 20 năm khói lửa chiến tranh. Vì vậy, người ta gọi thơ ông là
Thi sử. Có thể kể đến những bài thơ nổi tiếng và tiêu biểu của Đỗ Phủ như sau :
- Đăng cao, Binh xa hành, Khúc giang .
-
Mao ốc vi thu phong sở phá ca .
- Thu hứng ( 8 bài ).
- Tam lại : Thạch Hào lại, Đồng
Quan lại, Tân An lại .
- Tam biệt : Thùy lão biệt, Tân
hôn biệt, Vô gia biệt ….
Từ thơ ngũ ngôn đến thất ngôn,
cổ thể hay cận thể ; nếu qua tay Đỗ Phủ đều trở nên xuất sắc, nhuần nhuyễn. Ông
nắm rất vững thanh vận của ngôn ngữ Trung Quốc, phát huy nó tối đa để tạo được
sức truyền cảm của thơ. Ngoài ra ông còn sáng tạo những hình ảnh thi vị, mới
mẻ, giàu sức truyền cảm, trong thơ có những ý tưởng, khí phách lớn lao. Với
những cống hiến xuất sắc cho kho tàng Đường thi nên Đỗ Phủ được người đời tôn
vinh là Thi Thánh .
III- VỀ CÂU THƠ ĐƯỢC BÁC HỒ TRÍCH
DẪN :
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn
câu : “ Nhân sinh thất thập cổ lai hy”.
Câu này có ý nghĩa đơn giản là con
người sống được bảy mươi tuổi là hiếm có. Đây là nhận xét rất đúng với đời sống
con người ngày xưa, khi xã hội còn nghèo nàn lạc hậu, nền văn minh của nhân
loại chưa được phát triển .
Câu thơ được trích trong bài KHÚC
GIANG KỲ NHỊ của Đỗ Phủ, sáng tác năm 757 trong thời gian làm quan tại Tràng
An, lúc đó tác giả 45 tuổi . Bài thơ như sau :
KHÚC GIANG
kỳ nhị
Triều
hồi nhật nhật điển xuân y
Mỗi nhật giang đầu
tận túy quy
Tửu trái tầm thường
hành xứ hữu
Nhân
sinh thất thập cổ lai hy (*)
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện
Điểm thủy thanh
đình khoản khoản phi
Truyền ngữ phong
quang cộng lưu chuyển
Tạm thời tương
thưởng mạc tương vi .
ĐỖ PHỦ
(*) : Câu thơ được Bác Hồ
trích dẫn .
SÔNG KHÚC
phần 2
Tan chầu lại cởi áo đem vay
Túy lúy đầu sông cuối
mỗi ngày
Nợ rượu bao phen đều ngõ xóm
Đời người bảy chục hiếm xưa nay
Vờn hoa bươm bướm
tung tăng lượn
Giỡn nước chuồn
chuồn phấp phới bay
Phong cảnh nhớ cho
luôn biến đổi
Hưởng đi, kẻo tiếc
nuối sau này !
LÊ NGỌC THẠC
( Phỏng dịch )
Chủ Tịch Hồ Chí Minh xuất thân từ
một gia đình có truyền thống Nho học. Ông ngoại là cụ Tú Hoàng Xuân Đường, một
nhà Nho nổi tiếng uyên thâm Hán học ở xứ Nghệ; cha là cụ Nguyễn Sinh Sắc (
Nguyễn Sinh Huy ) đỗ Phó Bảng và từng làm Thừa biện bộ Lễ rồi đến Tri huyện
Bình Khê, tỉnh Bình Định .
Kế thừa tuyền thống Nho học của
gia đình; trong hành trình bôn ba tìm đường cứu nước, Bác còn nghiên cứu và
tiếp thu những học thuyết, những tư tưởng lớn của phương Tây. Sự hòa quyện hai
nền văn hóa Đông-Tây dẫ hình thành nên một lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại : Anh
hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới .
LÊ NGỌC THẠC
(PCN. CLB. Thơ Ca Mây Hồng-Tỉnh Đồng Tháp )
CỦA THIỀN SƯ MÃN GIÁC
Vào
thời nhà Lý (1009-1225), Thăng Long trở thành kinh đô nước Đại Việt. Đạo Phật
gần như là quốc giáo, nhiêù vị thiền sư được triều đình trọng vọng. Họ là những
con người lỗi lạc. đức trọng, tài cao, giỏi thơ văn, tên tuổi sáng ngời sử sách
của dân tộc .
Trong số đó, Mãn Giác thiền sư
là một vị cao tăng có tâm hồn thi sĩ tuyệt đẹp. Ông đã để lại cho đời sau một
bài thơ bất hủ, đó là bài Cáo tật thị chúng ( Có bệnh bảo mọi người ). Với bài
thơ này, ông được xem là một trong những tên tuổi tiêu biểu của dòng văn thơ
thời Lý-Trần.
Nhân dịp xuân về, trăm hoa đua
nở, chúng ta có thể dành một chút thời gian để nhớ về cành mai của Người .
I- VÀI NÉT VỀ MÃN GIÁC THIỀN SƯ
:
Mãn Giác thiền sư (1052-1096)
tên thật là Lý Trường, còn Mãn Giác thiền sư là pháp danh do vua Lý Nhân Tông
tặng khi ông viên tịch.
Thiền sư là con của Trung Thơ
Viên Ngoại Lang Lý Hoài Tố và là học trò của Quảng Trí thiền sư. Là người có
tài trí nên ông được chọn vào dạy cho Thái Tử Càn Đức (1071). Sau này Thái Tử
Càn Đức lên ngôi (tức là Lý Nhân Tông), ngài rất trọng thầy học, nên sai dựng
chùa Giáo Nguyên ở bên cạnh cung Cảnh Hưng cho ông trụ trì để tiện việc thăm
hỏi và bàn bạc chính sự .
Mãn Giác thiền sư là người rất
uyên thâm cả Nho và Phật. Trước khi vào cung ông đã có nhiều học trò và đã trở
thành một thần tượng trong thế hệ thứ 8 của dòng thiền Quang Bích .
Ông mất năm 1096 ( đời Lý Nhân
Tông ), khi mới 44 tuổi .
II- VỀ BÀI THƠ CÁO TẬT THỊ CHÚNG
:
Thật ra đây là một bài kệ ( kinh kệ ). Kệ là một thể loại
văn học Phật giáo thường viết dưới hình thức thơ, tóm tắt tư tưởng của một bài
thuyết pháp để dạy đệ tử, nên còn được gọi là thi kệ .
Theo sách Thiền Uyển tập anh,
bài Cáo tật thị chúng ra đời vào ngày 30.11.1096. Khi Mãn Giác thiền sư lâm bệnh
nặng, ông đã viết bài kệ này để dặn dò và giáo huấn các đệ tử .
Do tâm hồn và tài năng của
Mãn Giác thiền sư, nên Cáo tật thị chúng không chỉ là bài kệ khô khan mà đã trở
thành một thi phẩm bất hủ, sống mãi với thời gian. Bài thơ được viết dưới hình
thức “ lục cú hỗn thể” với 4 câu đầu ngũ ngôn và 2 câu sau thất ngôn.
CÁO TẬT THỊ CHÚNG
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc
vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ
nhất chi mai .
MÃN GIÁC THIỀN SƯ
MÃN GIÁC THIỀN SƯ
CÓ BỆNH BẢO MỌI NGƯỜI
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm
hoa khai
Sự đời trôi
trước mắt
Trên đầu tóc đã
phai
Nào phải xuân
tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một cành
mai .
LÊ NGỌC THẠC
( Phỏng dịch )
LÊ NGỌC THẠC
( Phỏng dịch )
Trong giờ phút lâm chung,
trước đầy đủ các sư tăng, thiền sư đã đọc bài thi kệ này như lời di chúc của
một vị chân tu đối với các đệ tử và cho tất cả mọi người. Đọc xong, Người qua
đời !
Bài thơ đã nêu một vấn đề muôn
thuở của đời người mà biết bao thế hệ phải trăn trở, đó là lẽ tử-sinh ! Nội hàm
bài thơ ẩn chứa triết lý đạo Phật cao sâu và ngôn ngữ biểu hiện thì giàu hình ảnh
, đậm tính nghệ thuật .
Thiền sư đã đi từ tư duy trực
giác để hình thành nên một biểu tượng bất hủ, đó là “nhất chi mai” ( một cành
mai ).
- Hai câu đầu, tác giả nêu quy luật của tự
nhiên :
Xuân
đi trăm hoa rụng
Xuân
đến trăm hoa khai
Khi mùa xuân đi qua thì trăm
hoa rụng, khi mùa xuân về thì trăm hoa đua nở. Đây là quy luật tuần hoàn của tự
nhiên và là dòng chảy bất tận của thời gian. Lối diễn đạt giàu hình ảnh và cảm
xúc đã làm câu kệ vốn khô khan trở thành hay và đẹp biết bao !
- Hai câu tiếp theo là quy
luật của đời người :
Sự
đời trôi trước mắt
Trên
đầu tóc đã phai
Sự
đời vận động không ngừng qua trước mắt. Còn đối với con người, có sinh ắt có
tử, khỏe mạnh rồi cũng có lúc bệnh tật, có tuổi trẻ rồi sẽ đến tuổi già …
Sinh-lão-bệnh-tử, đây là một quy luật của kiếp nhân sinh, không thể khác đi
được. Triết lý ẩn chứa trong hai câu này là hãy yêu cuộc đời và chấp nhận nó
một cách than thản vì đây là lẽ thường tình, không có gì đáng sợ cả .
Có một vị thiền sư đã nói : “
Trước cái chết, điều khôn ngoan duy nhất mà con người có thể làm được là vui
lòng chấp nhận nó .”
- Bài thơ khép lại bằng hai
câu thất ngôn tuyệt bút mà người đời xưa nay thường ca tụng là những vần thơ bất hủ :
Nào phải xuân tàn hoa rụng hết
Đêm
qua, sân trước một cành mai .
Hình
ảnh “nhất chi mai” ( một cành mai ) tượng trưng cho vẻ đẹp tinh khiết, thanh cao của
thiên nhiên và con người. Trong bài thơ này, cành mai nở hoa trong buổi xuân
tàn đã được thiền sư lấy đó để thể hiện nhân sinh quan của một vị chân tu : Vạn
vật sinh ra, tồn tại rồi mất đi, đời người có sinh-lão-bệnh-tử … nhưng người tu
hành chân chính, đắc đạo có thể vượt ra khỏi vòng sinh tử như cành mai nở hoa
trong buổi xuân tàn, khi trăm hoa đã rụng hết .
Ngoài ra, hình ảnh cành mai
như một lời nhắc nhở đối với các đệ tử nói riêng và mọi người nói chung rằng :
Hãy sống thế nào để mọi lời nói và hành động của mình đều có thể đem lại hạnh
phúc, an vui cho người khác và như vậy mỗi người chúng ta đều có ngày sẽ đến
với mùa xuân trường cữu của cõi lòng mình.
Bài
Cáo tật thị chúng của Mãn Giác thiền sư đã đi suốt hành trình gần một thiên
niên kỷ và hình tượng “nhất chi mai” đã trở thành bất tử với thời gian. Ở đây, tầm
cao triết lý Phật giáo hòa quyện với chất thơ, được biểu hiện bằng những lời
thơ giàu hình tượng và cảm xúc , đậm tính nghệ thuật. Đúng là một tuyên ngôn
triết học ẩn ngữ dưới hình thức nghệ thuật văn chương .
Nhân ngày xuân, đọc lại bài thơ, chúng ta thêm
trân trọng tinh thần lạc quan yêu đời, thái độ ung dung tự tại của thiền sư
trước lẽ tử-sinh của cuộc đời, thôi thúc chúng ta vươn tới một cuộc sống có
ích, vì mọi người. Dẫu sau này có chết đi cũng chỉ là chết phần thể xác, còn sự
nghiệp và tiếng thơm sẽ sống mãi với thời gian như cành mai đã đi vào cõi
trường sinh. Xin mượn câu thơ sau đây của đại thi hào Nguyễn Du để thay lời kết
:
“ Thác là thể phách,
còn là tinh anh”.
( Truyện Kiều )
LÊ NGỌC THẠC
( CLB. Thơ Ca Mây Hồng-Tỉnh Đồng Tháp )
Xin trân trọng giới thiệu thêm 2
bản dịch bài thơ trên để quý thi hữu tham khảo :
Xuân đi muôn vạn hoa
tàn
Xuân về thắm lại ngập tràn những hoa
Việc đời thế sự đi qua
Trên đầu tuyết điểm một vài cọng sương
Chớ cho xuân hết hoa tàn
Đêm qua sân trước nở vàng cành mai .
Xuân về thắm lại ngập tràn những hoa
Việc đời thế sự đi qua
Trên đầu tuyết điểm một vài cọng sương
Chớ cho xuân hết hoa tàn
Đêm qua sân trước nở vàng cành mai .
TẢN ĐÀ dịch. Xuân
đi trăm hoa rơi
Xuân đến trăm hoa nở
Việc đời qua trước mắt
Già theo đến trên đầu
Chớ bảo xuân qua hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai .
Việc đời qua trước mắt
Già theo đến trên đầu
Chớ bảo xuân qua hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai .
Hòa
Thượng THÍCH CHÂN TUỆ dịch .
ĐÔI ĐIỀU CẢM NHẬN
ĐÔI ĐIỀU CẢM NHẬN
VỀ MÀU SẮC NAM BỘ TRONG THƠ VĂN
CỤ NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
CỤ NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
N guyễn Đình Chiểu sinh ngày 01.07.1822 ( 13.05 Nhâm Ngọ ) ở
làng Tân Thới ,
huyện Bình Dương thuộc Gia Định Thành , nay là TP. Hồ Chí Minh .
Ông đỗ Tú Tài năm 1843 nhưng lại lỡ khoa thi Kỷ Dậu tại Huế ( 1849
) vì phải về chịu tang mẹ và sau đó lâm vào cảnh mù lòa lúc mới 27 tuổi .
Theo phong trào " Tị
địa " , ông rời Gia Định về Cần Giuộc ( Long An ) và tiếp tục về Ba Tri ( Bến Tre ) sống đến cuối đời .
Vì câu danh nghĩa phải đi ra
Day mũi thuyền nam dạ xót xa .
( Từ biệt cố nhân )
Ô ng mở trường dạy học , bốc
thuốc trị bệnh và sáng tác thơ văn . Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đã đóng góp
rất lớn cho dòng văn học yêu nước Nam bộ thời chống Pháp . Những
tác phẩm tiêu biểu như : Lục Vân Tiên , Dương Từ Hà Mậu , Ngư Tiều y thuật
vấn đáp , Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc , Văn tế Trương Định ... và nhiều bài
thơ nổi tiếng khác .
Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu có giá trị
về nhiều mặt , nhưng ở đây chỉ xin nêu mấy suy nghĩ về màu sắc Nam bộ trong những sáng tác của Ông
mà thôi .
1- DIỆN MẠO CỦA NAM KỲ LỤC TỈNH :
Dưới ngòi bút góc cạnh , đậm đà của Ông ; đất trời
Nam Kỳ Lục Tỉnh dần dần hiện ra qua các địa danh như : Đồng Nai , Bến Nghé
, Gia Định , Gò Công , sông Cần Giuộc , chợ Trường Bình , chùa Tôn Thạnh
...
- Chạy giặc :
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây .
- Điếu Trương Định :
Đồng Nai , Chợ Mỹ lo nhiều phía
Bến Nghé , Sài Gòn kể mấy đông .
- Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh :
Trời Gia Định ngày chiều rạng ráng
Đất Biên Hòa đêm vắng trăng lờ ...
Gần Côn Lôn , xa Đại Hải , máu thây trôi nổi ai nhìn ...
- Văn tế Trương Định :
Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt , thương đấng anh hùng
gặp lúc gian truân ;
Đất Gò Công cây cỏ ủ ê , cám niềm thần tử hết lòng trung
ái
...
Rạch Lá ,
Gò Công mấy trận , người thấy đã kinh ;
Cửa Khâu , Trại
Cá , ai nghe chẳng hãi .
- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc :
Đoái sông Cần Giuộc , cỏ cây mấy dặm sầu giăng ;
Nhìn chợ Trường Bình , già trẻ hai hàng lụy nhỏ ...
Chùa Tôn Thạnh năm canh ưng đóng lạnh , tấm lòng son
gởi
lại bóng trăng rằm ...
Bức tranh Nam
Kỳ Lục Tỉnh được khắc họa bằng những từ ngữ " đặc sệt " chất Nam bộ như :
- Thế đất : Gành , vực , bàu , vũng , vịnh , doi ...
- Con vật : Chim quành quạch , chù lắt ( chuột ) , rắn rồng ...
-
Những từ khác : Vùa hương ( bát cắm hương ) , qua ( tôi ) ,
bậu ( bạn ) , kiểng ( cảnh ) , ngươn ( nguyên ) , chở
đạo
( tải đạo ) ...
Những từ ngữ trên gợi ta nhớ đến
một đất Nam bộ còn hoang sơ của thời " khẩn hoang , lập ấp " nhưng vô cùng phong phú về sản
vật thiên nhiên qua các câu ca dao :
-
Cà Mau khỉ khọt trên bưng
Dưới sông sấu lội , trên rừng cọp um .
- Chiều chiều quạ nói với diều
Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm .
- Xứ Cần Thơ nam thanh nữ tú
Xứ Rạch Giá vượn hú chim kêu .
- Rộng đồng mặc sức chim bay
Biển , hồ lai láng cá bầy đua bơi .
- Trời xanh , kinh đỏ , đất xanh
Đỉa bu , muỗi cắn khiến anh nhớ nàng ...
Thế nhưng , Nam Kỳ Lục
Tỉnh giàu đẹp giờ đây đã đắm chìm trong khói lửa chiến tranh và lần lượt rơi vào tay thực dân Pháp ( ba
tỉnh miền Đông vào năm 1862 , ba tỉnh miền Tây vào năm 1867 )
. Ông đã xác định rõ lập trường của mình trong bài thơ Xúc cảnh ( Ngóng gió đông ) :
Bờ cõi xưa đà chia đất khác
Nắng sương nay há đội trời chung .
2- TÍNH CÁCH CỦA CON NGƯỜI NAM KỲ LỤC TỈNH :
Cũng qua thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu , ta thấy thể hiện rất rõ những tính cách đặc trưng của con người Nam bộ như : Phóng khoáng , trọng nghĩa khinh tài , thẳng thắn , trung thực , không tính toán che đậy
... Thể hiện rõ nhất là ba nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên ( Vân Tiên ,
Hớn
Minh , Tử Trực ) và thông qua suy nghĩ , lời lẽ đối đáp của các nhân
vật khác nữa .
- Hớn Minh kể chuyện bẻ cẳng tên công tử Đặng Sinh :
Tôi bèn nổi giận một khi
Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò .
- Tả bọn cướp Phong Lai lộng hành :
Bây giờ xuống cướp thôn hương
Thấy con gái tốt qua đường bắt đi .
- Chân thực , mộc mạc khi miêu tả cô gái đẹp :
Con ai vóc ngọc mình vàng
Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng .
- Trịnh Hâm nói thẳng thừng khi mắng ông Quán :
Gối rơm theo phận gối rơm
Có đâu dưới thấp mà chồm lên cao .
- Ông Quán cũng thẳng thắn không kém :
Quán rằng : Sấm chớp mưa rào
Ếch nằm đáy giếng thấy bao lăm trời ...
Uổng thay đàn khảy tai trâu
Nước xao đầu vịt nghĩ lâu nực cười .
- Tả bộ mặt xấu xí , chai lì của Bùi Kiêm :
Còn ngươi Bùi Kiệm máu dê
Ngồi chai bề mặt như xề thịt trâu .
- Bùi Kiệm tức giận trước thái độ trung thành của Nguyệt Nga :
Người ta chẳng lấy người
ta
Người ta đâu lấy những là tượng
nhân .
Bằng ngôn ngữ thô ráp , góc cạnh , không trau chuốt ,
cứ như từ cuộc sống hàng ngày bước thẳng vào trang sách ; ông đã miêu tả
tính cách tự do , phóng khoáng của con người Nam Kỳ Lục Tỉnh thật đúng và
nghe thật sướng tai .
Tính cách đặc trưng Nam bộ này dễ tìm thấy trong kho
tàng ca dao của nhân dân ta để lại . Tính cách ấy được hình thành và phát
triển từ môi trường sống , lao động sản xuất nơi vùng đất "
khai hoang , mở cõi " này .
Thử điểm qua một vài câu ca dao
:
- Cô gái nói thẳng lòng mình với chàng trai :
Thò tay ngắt một cọng ngò
Thương anh đứt ruột giả đò làm ngơ .
- Thương nhau đến mức đòi cắt cả ruột gan :
Phải chi cắt ruột đừng đau
Chiều nay tôi cắt ruột tui đưa anh đem về .
- Lấy thân thể của mình để làm thước đo tình yêu :
Tui xa mình không chết cũng đau
Thuốc bạc trăm không mạnh , mặt nhìn nhau mạnh liền .
- Thương nhau đến cả nắm vạt áo :
Anh về em nắm vạt áo em la làng
Biểu anh phải bỏ chữ thương chữ nhớ lại giữa đàng cho
em .
- Đôi khi hơi độc miệng một chút :
Anh có thương em thì cho em một đồng
Để em mua gan công , mật cóc em thuốc chồng rồi em
theo anh ...
Trên đây là
mấy suy nghĩ tản mạn và có tính chất ban đầu về màu sắc Nam bộ trong thơ văn cụ Nguyễn Đình Chiểu . Cần phải đọc và nghiên cứu nhiều hơn nữa mới thấy hết tầm cao giá trị của thơ văn Người . Tuy nhiên , chỉ bấy nhiêu cũng cho ta thấy sở dĩ các tác phẩm của cụ Đồ
sống
mãi vì nó gần gũi với nhân dân . Đó chính là lời ăn tiếng nói ,
là suy nghĩ và tình cảm của nhân dân . Từ đó đã hình thành một phong cách
nghệ thuật riêng cho ông , góp phần quan trọng vào dòng văn học yêu nước Nam
bộ thời chống Pháp .
LÊ NGỌC THẠC
(PCN.CLB.Thơ Ca Mây Hồng-Tỉnh Đồng Tháp)
CÂU ĐỐI
TẾT-NÉT VĂN HÓA ĐẸP
(PCN.CLB.Thơ Ca Mây Hồng-Tỉnh Đồng Tháp)
NGÀY XUÂN
C âu đối là thể loại văn biền ngẫu, gồm 2 vế đối nhau
nhằm biểu thị tư tưởng, tình cảm của người viết trước một hiện tượng, một sự
việc nào đó trong cuộc sống. Câu đối là một trong những thể loại quan trọng của
nền văn học Việt Nam.
Nội dung câu đối bao trùm các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng ở đây chỉ xin
nêu đôi điều cảm nhận về những câu đối xuân hay, tiêu biểu mà thôi .
Tết đến, nhà nào cũng treo đèn kết
hoa, chuẩn bị bàn thờ gia tiên, chăm lo cành đào phương Bắc, chậu mai phương Nam,
cỗ bàn thật vừa ý. Thế nhưng Tết lại không thể thiếu câu đối Xuân được. Có
người tự viết câu đối, nhưng phần lớn là thuê viết và người làm công việc này
là những ông Đồ viết chữ đẹp.
Mỗi
năm hoa đào nở
Lại thấy ông
đồ già
Bày mực tàu
giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu
người thuê viết
Tấm tắc ngợi
khen tài
“ Hoa tay
thảo những nét
Như phượng
múa rồng bay …”
( Ông đồ - Vũ Đình Liên
).
Câu đối Xuân ( Xuân liên ) nói riêng và câu đối nói
chung có thể chia làm 2 loại, căn cứ vào hình thức văn tự : Câu đối Hán-Việt và
câu đối thuần Việt .
I-CÂU ĐỐI HÁN-VIỆT
:
1- Câu đối cầu thọ, cầu phúc :
Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ
Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường
Nghĩa : Trời thêm tuổi mới, người thêm thọ
Xuân khắp trời đất, phúc khắp nhà .
Phước thâm tự hải
Lộc cao như sơn
Nghĩa : Hạnh phúc nhiều sâu như biển
Của cải nhiều cao như núi .
Tân niên hạnh phúc bình an tiến
Xuân nhật vinh hoa phú quý lai
Nghĩa : Năm mới hạnh phúc bình an đến
Ngày xuân vinh hoa phú quý về .
Phước lộc thọ tam tinh cùng chiếu
Thiên địa nhân nhất thể đồng xuân
Nghĩa : Ba vì sao phước, lộc, thọ đều cùng chiếu sáng
Trời, đất, con người cả ba đều hưởng xuân .
Môn đa khách đáo thiên tài đáo
Gia hữu nhân lai vạn vật lai
Nghĩa : Cửa nhiều khách đến, nhiều tiền đến
1- Câu đối cầu thọ, cầu phúc :
Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ
Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường
Nghĩa : Trời thêm tuổi mới, người thêm thọ
Xuân khắp trời đất, phúc khắp nhà .
Phước thâm tự hải
Lộc cao như sơn
Nghĩa : Hạnh phúc nhiều sâu như biển
Của cải nhiều cao như núi .
Tân niên hạnh phúc bình an tiến
Xuân nhật vinh hoa phú quý lai
Nghĩa : Năm mới hạnh phúc bình an đến
Ngày xuân vinh hoa phú quý về .
Phước lộc thọ tam tinh cùng chiếu
Thiên địa nhân nhất thể đồng xuân
Nghĩa : Ba vì sao phước, lộc, thọ đều cùng chiếu sáng
Trời, đất, con người cả ba đều hưởng xuân .
Môn đa khách đáo thiên tài đáo
Gia hữu nhân lai vạn vật lai
Nghĩa : Cửa nhiều khách đến, nhiều tiền đến
Nhà có người vào, lắm vật vào.
2- Câu đối bày tỏ lòng biết ơn của con cháu
đối với tổ tiên:
Tuế hữu tứ thời xuân thủ
Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên
Nghĩa: Năm có bốn mùa, mùa xuân đứng đầu
Người có trăm nết, chữ hiếu trước hết
Tổ tông công đức thiên niên thịnh
Tôn tử hiếu hiền vạn đại lưu
Nghĩa : Công đức tổ tiên ngàn năm thịnh
Hiếu hiền con cháu vạn đời lưu .
Tuế hữu tứ thời xuân thủ
Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên
Nghĩa: Năm có bốn mùa, mùa xuân đứng đầu
Người có trăm nết, chữ hiếu trước hết
Tổ tông công đức thiên niên thịnh
Tôn tử hiếu hiền vạn đại lưu
Nghĩa : Công đức tổ tiên ngàn năm thịnh
Hiếu hiền con cháu vạn đời lưu .
3- Câu đối ca ngợi cảnh sắc mùa xuân và
niềm vui năm mới
Sơn thủy thanh cao xuân bất tận
Thần tiên lạc thú cảnh trường sinh
Sơn thủy thanh cao xuân bất tận
Thần tiên lạc thú cảnh trường sinh
Nghĩa : Non nước thanh
cao xuân mãi mãi
Thần tiên vui thú cảnh đời đời .
Xuân phong yểm ánh thiên niên liễu
Noãn vũ tình khai nhất kính hoa
Thần tiên vui thú cảnh đời đời .
Xuân phong yểm ánh thiên niên liễu
Noãn vũ tình khai nhất kính hoa
Nghĩa : Gió xuân phất phơ
bóng liễu ngoài trước ngõ
Mưa
tạnh rồi hoa nở đầy mặt gương .
Đào hạnh mãn viên xuân tự cẩm
Chi lan nhiễu
thế tọa ngưng hương
Nghĩa : Hoa đào, hoa hạnh
nở đầy vườn, xuân đẹp như gấm vóc
Cỏ
lan, cỏ chỉ mọc quanh thềm, chỗ ngồi ngát hương.
Phương
thảo xuân hồi y cựu lục
Mai hoa thời
đáo tự nhiên hương
Nghĩa : Mùa xuân trở lại,
đám cỏ thơm xanh biếc như xưa
Đến lúc hoa mai về, tự nhiên có hương
thơm .
Bách
lý xuân phong hồi thảo dã
Tứ thời hòa
khí cập thương sinh
Nghĩa : Gió xuân từ trăm
dặm thổi về chốn đồng quê
Mong cho bốn mùa đều có hòa khí phổ cập đến .
Trên đây là những câu đối
Hán-Việt tiêu biểu, thường được nhắc đến.
Việc xác định tác giả cho
các câu đối này gặp rất nhiều khó khăn. Do nhiều nguyên nhân khác nhau nên câu
đối cổ thường bị khuyết danh hoặc bị lẫn lộn về tên tác giả . Ví dụ như để được
trân trọng, người ta hay nhờ các danh nho viết hộ rồi để tên mình, sau đó đem
tặng cho người khác. Vì vậy, xin được phép không thể nêu tên tác giả của những
câu đối Hán-Việt đã trích dẫn .
I- CÂU ĐỐI THUẦN VIỆT :
Câu đối thuần Việt thì rất nhiều,
nhưng ở đây xin trích dẫn một số câu đối tiêu biểu của các nhà thơ nổi tiếng ở
nước ta có liên quan đến ngày Xuân .
1- Bà huyện Thanh Quan :
Duyên với văn chương nên dán chữ
Nợ cùng trời đất phải trồng nêu .
2- Hồ Xuân Hương
:
- Tối ba mươi, khép cánh kiền khôn,
ních chặt lại kẻo ma vương đưa quỷ tới ;
Sáng mồng một, lỏng then tạo hóa,
mở toang ra cho thiếu nữ rước xuân vào .
( Đây là một trong những câu đối tuyệt bút của văn học
Việt Nam
).
3- Nguyễn Công Trứ :
- Tết đến không tiền lo chi Tết
Xuân về hết gạo đón chi Xuân .
- Tết có cóc gì
đâu, uống một vài be củ tỏi
Nợ đâm ương ra đó, nói ba bốn chuyện cà riềng
.
. - Chiều
ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa ;
Sáng mồng một, rượu say túy
lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà .
- Chọc trời ngất một cây nêu, tối ba mươi ri là Tết ;
Vang đất đùng
ba tiếng pháo, rạng mồng một rứa cũng Xuân .
( Những câu đối này, Nguyễn Công
Trứ viết lúc còn hàn vi. )
4- Trần Tế Xương ( Tú Xương ) :
- Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ ;
Cây nêu, tràng pháo,
bánh chưng xanh .
( Đây là câu đối quen thuộc, ai cũng biết ).
- Thiên hạ xác rồi, còn đốt pháo
Nhân tình bạc
thế, lại bôi vôi .
( Tập tục nước ta ngày xưa là đốt pháo vào dịp Tết,
tối ba mươi tháng chạp lại rắc vôi hình cánh cung ở ngoài ngõ để trừ tà ma. Câu
đối còn có ý than thở cho thế thái nhân tình .)
- Nực cười thay !
Nêu không, pháo không, vôi bột cũng không, mà Tết ;
Thôi cũng được! Rượu có, nem có, bánh
chưng đều có, thừa Xuân .
- Đì đẹt ngoài sân, tràng pháo chuột
Lập lòe trên
vách, bức tranh gà .
- Không dưng Xuân đến chi nhà tớ
Có lẽ trời nào
đóng cửa ai .
- Xuân về chớ để
xuân đi, thương kẻ quạt nồng cùng ấp lạnh ;
Năm mới khác gì
năm cũ, van người bán muối với mua vôi .
5- Nguyễn
Khuyến :
- Tối
ba mươi, giơ cẳng đụng cây nêu, ủa Tết ;
Sáng mồng
một, lắng tai nghe tiếng pháo, ờ Xuân .
( Cụ Tam Nguyên Yên Đỗ khi về già thì đôi mắt gần như
bị lòa nên cụ mượn lời một người mù ngớ ngẩn, nghe cũng buồn cười ).
-
Tết đến, rượu ngon đưa mấy chén
Xuân về, bút
mới thử vài trang .
-
Tranh pháo vui xem đàn trẻ nhỏ
Tóc râu thêm
sợi tuổi trời cao .
- Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái Tết ;
Ứơc gì nhỉ,
một năm mười hai tháng, cả bốn mùa Xuân .
- Tối ba mươi nợ réo tít mù, ờ ờ Tết ;
Sáng mồng một
rượu say túy lúy, à à Xuân .
- Chúng nó dại vô
cùng, pháo nổ đì đùng thêm mất chó;
Ông đây khôn
bất trị, rượu say túy lúy lại nằm mèo .
6- Vài câu
đối Xuân độc đáo, xem cho vui :
- Năm
chuột đi, cháy nhà vẫn không ra mặt chuột ;
Tết trâu đến,
gảy đàn liệu có lọt tai trâu ?
(
GS. Văn Như Cương-Viết năm 2009 )
-
Tết túng tiền tiêu, toan tính tìm tay tử tế ;
Xuân xài xu xịn, xong xuôi xuống xưởng xác xơ
.
( Khuyết danh )
- Thầy giáo tháo giầy đi chợ Tết ;
Giáo chức dứt
cháo dự hội Xuân .
( Khuyết danh )
Ngày nay, cuộc sống đã có rất nhiều thay đổi theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong nhịp sống hối hả đó, vào mỗi dịp Tết
đến, người ta vẫn còn thấy xuất hiện bên trong các chợ và trên vỉa hè thành phố
hình ảnh ông Đồ rất đẹp. Ông ngồi trên đôi gót chân, tay cầm bút lông chấm vào
mực Tàu dằm trong cái nghiên rộng. Rất nhiều người vây quanh ông để nhờ viết
chữ hoặc câu đối Xuân về dán trong nhà mừng năm mới .
Hàng năm, như đã thành thông lệ
đẹp vào những ngày Tết, tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám ( Hà Nội ) lại tổ chức thư
pháp, thư họa . Dịp này một số danh nho và nhà viết thư pháp nổi tiếng như Bùi
Hạnh Cẩn, Lê Xuân Hòa, Nguyễn Văn Bách, Trần Lê Văn … được mời đến viết câu đối
Tết. Hương xưa khơi dậy, thu hút hàng ngàn người Việt Nam cùng khách quốc tế
tham gia và chiêm ngưỡng .
Thời gian trôi đi như dòng chảy
bất tận, nhưng hình ảnh ông Đồ vẫn còn đó và sống mãi trong thơ ca. Còn câu đối
Xuân và câu đối nói chung luôn là những viên ngọc quý trong kho tàng văn học,
một nét văn hóa đẹp trong đời sống dân tộc Việt Nam .
LÊ NGỌC THẠC
(PCN.CLB.Thơ Ca Mây Hồng TP.Cao Lãnh-Đồng Tháp)
(PCN.CLB.Thơ Ca Mây Hồng TP.Cao Lãnh-Đồng Tháp)