Tác giả



     V ào thời nhà Lý (1009-1225), Thăng Long trở thành kinh đô nước Đại Việt. Đạo Phật gần như là quốc giáo, nhiêù vị thiền sư được triều đình trọng vọng. Họ là những con người lỗi lạc. đức trọng, tài cao, giỏi thơ văn, tên tuổi sáng ngời sử sách của dân tộc .
Trong số đó, Mãn Giác thiền sư là một vị cao tăng có tâm hồn thi sĩ tuyệt đẹp. Ông đã để lại cho đời sau một bài thơ bất hủ, đó là bài Cáo tật thị chúng ( Có bệnh bảo mọi người ). Với bài thơ này, ông được xem là một trong những tên tuổi tiêu biểu của dòng văn thơ thời Lý-Trần.
               Nhân dịp xuân về, trăm hoa đua nở, chúng ta có thể dành một chút thời gian để nhớ về cành mai của Người .
               I- VÀI NÉT VỀ MÃN GIÁC THIỀN SƯ :
               Mãn Giác thiền sư (1052-1096) tên thật là Lý Trường, còn Mãn Giác thiền sư là pháp danh do vua Lý Nhân Tông tặng khi ông viên tịch.
               Thiền sư là con của Trung Thơ Viên Ngoại Lang Lý Hoài Tố và là học trò của Quảng Trí thiền sư. Là người có tài trí nên ông được chọn vào dạy cho Thái Tử Càn Đức (1071). Sau này Thái Tử Càn Đức lên ngôi (tức là Lý Nhân Tông), ngài rất trọng thầy học, nên sai dựng chùa Giáo Nguyên ở bên cạnh cung Cảnh Hưng cho ông trụ trì để tiện việc thăm hỏi và bàn bạc chính sự .
                Mãn Giác thiền sư là người rất uyên thâm cả Nho và Phật. Trước khi vào cung ông đã có nhiều học trò và đã trở thành một thần tượng trong thế hệ thứ 8 của dòng thiền Quang Bích.
               Ông mất năm 1096 ( đời Lý Nhân Tông ), khi mới 44 tuổi .
               II- VỀ BÀI THƠ CÁO TẬT THỊ CHÚNG :
             Thật ra đây là một bài kệ ( kinh kệ ). Kệ là một thể loại văn học Phật giáo thường viết dưới hình thức thơ, tóm tắt tư tưởng của một bài thuyết pháp để dạy đệ tử, nên còn được gọi là thi kệ .
             Theo sách Thiền Uyển tập anh, bài Cáo tật thị chúng ra đời vào ngày 30.11.1096. Khi Mãn Giác thiền sư lâm bệnh nặng, ông đã viết bài kệ này để dặn dò và giáo huấn các đệ tử .
                Do tâm hồn và tài năng của Mãn Giác thiền sư, nên Cáo tật thị chúng không chỉ là bài kệ khô khan mà đã trở thành một thi phẩm bất hủ, sống mãi với thời gian. Bài thơ được viết dưới hình thức “ lục cú hỗn thể” với 4 câu đầu ngũ ngôn và 2 câu sau thất ngôn.
                                               CÁO TẬT THỊ CHÚNG

                                             Xuân khứ bách hoa lạc
                                             Xuân đáo bách hoa khai
                                             Sự trc nhãn tiền quá
                                             Lão tòng đầu thượng lai
                                             Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
                                             Đình tiền tạc dạ nhất chi mai .
                                                                   MÃN GIÁC THIỀN SƯ
                                               CÓ BỆNH BẢO MỌI NGƯỜI

                                              Xuân đi trăm hoa rụng
                                              Xuân đến trăm hoa khai
                                              Sự đời trôi trước mắt
                                             Trên đầu tóc đã phai
                                              Nào phải xuân tàn hoa rụng hết
                                              Đêm qua, sân trước một cành mai .
                                                                               LÊ NGỌC THẠC
                                                                                 ( Phỏng dịch )
                 Trong giờ phút lâm chung, trước đầy đủ các sư tăng, thiền sư đã đọc bài thi kệ này như lời di chúc của một vị chân tu đối với các đệ tử và cho tất cả mọi người. Đọc xong, Người qua đời !
                  Bài thơ đã nêu một vấn đề muôn thuở của đời người mà biết bao thế hệ phải trăn trở, đó là lẽ tử-sinh ! Nội hàm bài thơ ẩn chứa triết lý đạo Phật cao sâu và ngôn ngữ biểu hiện thì giàu hình ảnh , đậm tính nghệ thuật .
                 Thiền sư đã đi từ tư duy trực giác để hình thành nên một biểu tượng bất hủ, đó là “nhất chi mai” ( một cành mai ).
                  - Hai câu đầu, tác giả nêu quy luật của tự nhiên :
                                                     Xuân đi trăm hoa rụng
                                                     Xuân đến trăm hoa khai
                 Khi mùa xuân đi qua thì trăm hoa rụng, khi mùa xuân về thì trăm hoa đua nở. Đây là quy luật tuần hoàn của tự nhiên và là dòng chảy bất tận của thời gian. Lối diễn đạt giàu hình ảnh và cảm xúc đã làm câu kệ vốn khô khan trở thành hay và đẹp biết bao !
                 - Hai câu tiếp theo là quy luật của đời người :
                                                     Sự đời trôi trước mắt
                                                     Trên đầu tóc đã phai
                Sự đời vận động không ngừng qua trước mắt. Còn đối với con người, có sinh ắt có tử, khỏe mạnh rồi cũng có lúc bệnh tật, có tuổi trẻ rồi sẽ đến tuổi già … Sinh-lão-bệnh-tử, đây là một quy luật của kiếp nhân sinh, không thể khác đi được. Triết lý ẩn chứa trong hai câu này là hãy yêu cuộc đời và chấp nhận nó một cách than thản vì đây là lẽ thường tình, không có gì đáng sợ cả .
                  Có một vị thiền sư đã nói : “ Trước cái chết, điều khôn ngoan duy nhất mà con người có thể làm được là vui lòng chấp nhận nó .”
                 - Bài thơ khép lại bằng hai câu thất ngôn tuyệt bút mà người đời xưa nay thường ca 
tụng là những vần thơ bất hủ :
                                                   Nào phải xuân tàn hoa rụng hết
                                                   Đêm qua, sân trước một cành mai.
               Hình ảnh “nhất chi mai” ( một cành mai ) tượng trưng cho vẻ đẹp tinh khiết, thanh cao của thiên nhiên và con người. Trong bài thơ này, cành mai nở hoa trong buổi xuân tàn đã được thiền sư lấy đó để thể hiện nhân sinh quan của một vị chân tu : Vạn vật sinh ra, tồn tại rồi mất đi, đời người có sinh-lão-bệnh-tử … nhưng người tu hành chân chính, đắc đạo có thể vượt ra khỏi vòng sinh tử như cành mai nở hoa trong buổi xuân tàn, khi trăm hoa đã rụng hết .
                Ngoài ra, hình ảnh cành mai như một lời nhắc nhở đối với các đệ tử nói riêng và mọi người nói chung rằng : Hãy sống thế nào để mọi lời nói và hành động của mình đều có thể đem lại hạnh phúc, an vui cho người khác và như vậy mỗi người chúng ta đều có ngày sẽ đến với mùa xuân trường cữu của cõi lòng mình.
                Bài Cáo tật thị chúng của Mãn Giác thiền sư đã đi suốt hành trình gần một thiên niên kỷ và hình tượng “nhất chi mai” đã trở thành bất tử với thời gian. Ở đây, tầm cao triết lý Phật giáo hòa quyện với chất thơ, được biểu hiện bằng những lời thơ giàu hình tượng và cảm xúc , đậm tính nghệ thuật. Đúng là một tuyên ngôn triết học ẩn ngữ dưới hình thức nghệ thuật văn chương .
                 Nhân ngày xuân, đọc lại bài thơ, chúng ta thêm trân trọng tinh thần lạc quan yêu đời, thái độ ung dung tự tại của thiền sư trước lẽ tử-sinh của cuộc đời, thôi thúc chúng ta vươn tới một cuộc sống có ích, vì mọi người. Dẫu sau này có chết đi cũng chỉ là chết phần thể xác, còn sự nghiệp và tiếng thơm sẽ sống mãi với thời gian như cành mai đã đi vào cõi trường sinh. Xin mượn câu thơ sau đây của đại thi hào Nguyễn Du để thay lời kết :
                                         “ Thác là thể phách, còn là tinh anh”.
                                                                                      ( Truyện Kiều )
                                              Leâ  Ngoïc  Thaïc
                                 NỖI BUỒN QUA THƠ 
                                   BÀ HUYỆN THANH QUAN
                           ----ooOOoo----    


      à Huyện Thanh Quan ( 1805-1848 ) tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, Hà Nội . Bà là học trò của danh sĩ Phạm Quí Thích .
             Chồng của Bà là Lưu Nghị, đỗ Cử Nhân năm 1821, từng làm Tri huyện Thanh Quan ( nay là huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình ) nên người ta thường gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan. Ông Lưu Nghị làm quan trải đến chức Bát Phẩm Thư Lại bộ Hình, nhưng mất sớm lúc 43 tuổi. Dưới thời vua  Minh Mạng, bà còn được mời về kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và cung phi .
              Thơ của Bà Huyện Thanh Quan để lại không nhiều. Theo Hợp Tuyển thơ văn Việt Nam ( tập III ) của Viện Văn học, xuất bản năm 1963 ; thì nữ sĩ chỉ để lại 7 bài thơ Nôm Đường luật. Đó là : Qua Đèo Ngang, Cảnh chiều hôm, Thăng Long hoài cổ, Nhớ nhà, Chùa Trấn Quốc, Cảnh đền Trấn Võ, Tức cảnh chiều thu .
               Đọc lai 7 bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan, ta thấy đây là những bức tranh thủy mặc chấm phá rất tài hoa, vừa cụ thể trước mắt vừa ước lệ vĩnh hằng. Trong thiên nhiên với cỏ cây hoa lá, non nước gió trăng, thuyền câu xóm chợ, con người và sinh vật … tác giả đã chọn được những nét đặc trưng, tiêu biểu cho từng bức tranh phong cảnh . Thế nhưng, nữ sĩ không phải chủ yếu là tả cảnh mà là mượn cảnh để gởi tình.
               Tình cảm dễ nhận dạng nhất trong thơ Bà Huyện Thanh Quan là nỗi buồn, tâm trạng cô đơn không được chia sẻ cùng ai :
                                           Kẻ chốn Chương đài, người lữ thứ
                                           Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn .
                                                                          ( Cảnh chiều hôm )
                Ngay cả đối với thiên nhiên, nữ sĩ vẫn không tìm được sự giao hòa :
                       
                                           Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
                                           Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường .
                                                                         ( Thăng Long hoài cổ )

             Nhưng nỗi buồn tập trung nhất có lẽ ở bài thơ Qua Đèo Ngang. Hình tượng nữ sĩ đứng trên đỉnh Đèo Ngang trong buổi chiều tà là hình tượng độc đáo trong văn học cổ điển Việt Nam. Nỗi cô đơn đã được “tạc tượng” vào không gian và thời gian. Một tư thế cô đơn với tâm sự riêng mình :
                                            Dừng chân dứng lại trời non nước
                                            Một mảnh tình riêng ta với ta .
                                                                               ( Qua Đèo Ngang )

            Về nỗi buồn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, từ trước đến nay đã có rất nhiều cách lý giải. Ở đây, tôi xin được phép giới thiệu hai trường phái khác nhau để quý thi hữu tham khảo :

   I- ĐÓ LÀ TÂM TRẠNG HOÀI LÊ :

             Bà Huyện Thanh Quan sống vào khoảng cuối Lê đầu Nguyễn. Cũng như phần lớn văn nhân thi sĩ lúc bấy giờ, bà mang lòng hoài vọng nhà Lê, điều này giống như Nguyễn Du .
              Tâm trạng hoài Lê thể hiện rõ rệt nhất trong bài Thăng Long hoài cổ . Kinh đô lúc bấy giờ không còn ở Thăng Long mà đã dời vào Phú Xuân ( Huế ). Đi ngang qua thành Thăng Long nay đã hoang phế, bà cảm thấy cuộc đời như tấn tuồng thay đổi nhanh chóng :
                                            Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
                                            Đến nay thấm thoát mấy tinh sương .
                                                                                 ( Thăng Long hoài cổ )
               Những lối đi phủ đầy cỏ mùa thu, nền cũ của cung điện, những phiến đá trơ gan, mặt nước hồ xưa như chau lại trước cảnh tang thương … Tất cả như còn phảng phất hình bóng của triều đại nhà Lê :
                                             Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
                                             Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
                                             Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
                                             Nước còn chau mặt với tang thương .
                                                                                      ( Thăng Long hoài cổ )

             Khi đến thăm chùa Trấn Quốc ở bên cạnh Hồ Tây, nơi mà các vua nhà Lê trước đây thường ra ngự để hóng mát; Bà đã bộc lộ nỗi lòng đối với nhà Lê thật chân thành và cảm động :

                                              Trấn Bắc hành cung lắm dãi dầu
                                              Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
                                              Mấy tòa sen rớt hơi hương ngự
                                              Năm thức mây phong nếp áo chầu
                                              Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
                                              Chuông hồi kim cổ lắng càng mau .
                                                                                              ( Chùa Trấn Quốc )
              Bà Huyện Thanh Quan sống vào thời Nho học đang hưng thịnh với những quan niệm như “Trung thần bất sự nhị quân” hoặc “trung quân” và “ái quốc” là một, mất vua cũng như mất nước . Hơn nữa, thời kỳ lịch sử Bà đang sống là thời Nguyễn sơ, cái mới và cũ đang giao thời, hệ thống cai trị có sẵn từ trước bị đảo lộn nên gây ra nhiều bất mãn cho đám cựu thần nhà Lê. Bà đã viết :

                                                Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
                                                Thương nhà mỏi miệng cái gia gia .
                                                                                            ( Qua Đèo Ngang )

             Giọng điệu hai câu thơ giống như người mất nước. Nhưng thật ra nước có mất đâu ? Đất nước vẫn độc lập, chỉ có triều đại thay đổi mà thôi ! Như thế có nghĩa là nhà Lê mất cũng như nước mất. Bị lệ thuộc vào hoàn cảnh, vào tư tưởng thời đại, Bà đã mang cái tâm trạng của phần đông Nho sĩ đương thời là hoài Lê .
              Từ những luận cứ nêu trên, có thể đi đến kết luận : Nỗi buồn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan chính là tâm trạng nhớ về nhà Lê .

                            II- ĐÓ LÀ NỖI BUỒN CÁ NHÂN VÀ GIA ĐÌNH :

               Bà Huyện Thanh Quan và chồng là Lưu Nghị đều là quan Nhà Nguyễn. Chưa có tư liệu nào chứng minh sự gắn bó sâu nặng của gia đình Bà đối với vương triều nhà Lê. Bà sống khoảng những thập kỷ đầu của thế kỷ XIX dưới các triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Bấy giờ vương triều nhà Nguyễn đã được khẳng định là một triều đại chính thống trong lịch sử, đủ tư cách đại diện cho quốc gia .
              Do đó, tâm trạng thương nhớ nhà Lê, không đậm đà với nhà Nguyễn có thể đúng với Nguyễn Du hoặc những nhà thơ khác có nhiều gắn bó với nhà Lê. Nhưng đối với Bà Huyện Thanh Quan thì chắc là không phải. Vì vậy tâm trạng u hoài, cô đơn của nữ sĩ chỉ có thể lý giải từ nguyên nhân khác .
              Về hoàn cảnh gia đình, chồng Bà là Lưu Nghị qua đời khá sớm ( năm 43 tuổi ), cảnh góa bụa đã khiến Bà đơn chiếc và luôn luôn nhớ về một dĩ vãng không bao giờ trở lại. Hơn nữa, những ngày xa nhà dù là đi làm quan, thì đối với một người phụ nữ cũng có biết bao nỗi niềm trăn trở.
              Chuyến đi xa nhà quan trọng nhất trong cuộc đời nữ sĩ có lẽ là chuyến đi từ miền Bắc vào Thuận Hóa để nhận chức Cung Trung Giáo Tập, dạy học cho các công chúa và cung phi .
              Hành trình khó khăn, đường xa vạn dặm, nhất là vào lúc chiều tà, đã làm cho Bà nặng lòng thương nhớ :
                                                 Ngàn mai lác đác chim về tổ
                                                 Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà
                                                 Còi mục thét trăng miền khoáng dã
                                                 Chài ngư tung gió bãi bình sa
                                                 Làng quê một bước đường ngao ngán
                                                 Mấy kẻ tình chung có thấu là ?
                                                                                                 ( Nhớ nhà )
              Giữa trời cao đất rộng, đồi núi chập chùng của Đèo Ngang; Bà liên tưởng đến cảnh quê nhà, nơi tổ ấm thân yêu giờ đây cũng tiêu điều, ủ rũ :

                                                  Lom khom dưới núi tiều vài chú
                                                  Lác đác bên sông chợ mấy nhà
                                                  Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
                                                  Thương nhà mỏi miệng cái gia gia .
                                                                                            ( Qua Đèo Ngang )
               Nữ sĩ bất chợt rùng mình trong cảnh chiều hôm với sương sa, gió cuốn. Nỗi buồn cô đơn luôn ám ảnh tâm hồn Bà :

                                                  Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
                                                  Dặm liễu sương sa khách bước dồn
                                                  Kẻ chốn chương đài, người lữ thứ
                                                  Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn .
                                                                                           ( Cảnh chiều hôm )

                Trong thời gian và không gian của buổi chiều tà, Bà cảm thấy bơ vơ trống trải, không biết bày tỏ tâm sự cùng ai :
                                                   Dừng chân đứng lại trời non nước
                                                   Một mảnh tình riêng ta với ta .
                                                                                              ( Qua Đèo Ngang )
               Với tâm hồn đa sầu đa cảm luôn trĩu nặng nỗi buồn, nhưng Bà vẫn mong ước, khát khao một cuộc sống bình yên, một bầu không khí trong lành, rũ sạch ưu tư :

                                                   Êm ái chiều hôm tới Trấn dài
                                                   Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
                                                   Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng
                                                   Một vũng tanng thương nước lộn trời
                                                   Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
                                                   Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
                                                   Nào nào cực lạc là đâu tá ?
                                                   Cực lạc là đây, chín rõ mười .
                                                                                          ( Cảnh đền Trấn Võ )

                Mặc dù có hai bài thơ là Chùa Trấn Quốc và Thăng Long hoài cổ có ý nghĩa xã hội và tâm trạng trước sự hưng vong biến đổi của triều đại. Tuy nhiên, có thể hiểu rằng Bà Huyện Thanh Quan đã từ bi kịch của cá nhân mình mà liên tưởng rộng ra đến những vấn đề của xã hội. Những thay đổi của thời cuộc có sức lay động rất lớn làm cho những ai có con tim dễ rung cảm cũng phải xót xa .
                Ngoài ra, theo các công trình nghiên cứu thì bài Thăng Long hoài cổ trước đây còn mang tên Qua chốn chồng làm quan cũ. Nếu thế thì càng chứng tỏ Bà Huyện Thanh Quan đang nghĩ về cảnh ngộ của mình, những kỷ niệm riêng tư và một thời gia đình hạnh phúc .
                
               Trên đây là hai ý kiến khác nhau về nỗi buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Tuy nhiên theo chúng tôi, trong thơ của nữ sĩ tồn tại cả hai tình cảm sâu đậm chứ không phải là một. Đó là :
                            - Hoài vọng nhà Lê như phần đông các Nho sĩ đương thời .
                            - Tâm trạng thương nhớ gia đình, quê hương, những kỷ niệm riêng tư của một thời gia đình hạnh phúc .
                  Hai tình cảm ấy hòa quyện vào nhau tạo nên một nỗi buồn, một tâm trạng cô đơn và được thể hiện qua những lời thơ buồn xa xôi, nhẹ nhàng và kín đáo .
                  Về nghệ thuật, Bà đã đem đến cho thơ Nôm luật Đường tiếng nói đài các, nghiêm nghị mà vẫn trong sáng, giản dị và trữ tình sâu đậm. Đặc điểm ấy là do nghệ thuật dùng từ, chọn âm thanh, sắp đặt nhịp điệu … rất điêu luyện của nữ sĩ. Nhưng quan trọng hơn, đó là những cảm xúc chân thành được gởi gắm vào từng bài thơ giúp nó sống mãi với thời gian .
                    Do có sự hòa hợp nhuần nhuyễn giữa hình thức và nội dung tuyệt vời như thế nên có thể khẳng định Bà Huyện Thanh Quan là một trong những thi sĩ làm thơ luật Đường hay nhất trong văn chương Việt Nam .

                                                                                       LÊ NGỌC THẠC
                                                      ( PCN.CLB.Thơ Ca Mây Hồng TP. Cao Lãnh-Đồng Tháp )
                                                     QUA ĐÈO NGANG
                               NHỚ BÀ HUYỆN THANH QUAN
                                                      Tôi đến nơi đây cũng xế tà
                                                       Đèo Ngang nữ sĩ đã từng qua
                                                       Năm nào trăn trở màu cây cỏ
                                                       Thuở ấy bâng khuâng nỗi nước nhà
                                                       Muôn dặm ly hương sao lặng lẽ
                                                       Đôi vần hoài cổ khó phôi pha
                                                       Nay hoa độc lập xanh quê mẹ
                                                       Cho mảnh tình xưa thôi xót xa !

                                                                                         LÊ NGỌC THẠC     

                                      THƠ TÚ XƯƠNG
                                      NỤ CƯỜI VÀ NƯỚC MẮT

                                            xxxxxxxxxxxxxx 000000000 xxxxxxxxxxxxxxx
  
                   hà thơ Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương . Ông sinh ngày 05.09.1870 (tức 10.08 năm Canh Ngọ) ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, Tỉnh Nam Định (Hiện nay là phố Hàng Nâu tức phố Minh Khai, phường Vị Xuyên, Thành phố Nam Định) . Ông mất ngày 29.01.1907 lúc mới 37 tuổi .
                    Con đường khoa cử của Tú Xương vô cùng lận đận, chỉ đỗ Tú Tài khoa Giáp Ngọ (1894), còn lại đều hỏng cả 7 kỳ thi.    Thế nhưng, sự nghiệp văn chương của ông thì sống mãi, bất chấp sự thử thách nghiệt ngã của thời gian, đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã viết :

                                        Ông Nghè ông Thám vô mây khói
                                        Đứng lại văn chương một Tú Tài .

                   Nhiều người nghĩ Tú Xương chỉ là một nhà thơ trào phúng, điều này đúng nhưng chưa đủ. Đối với ông, bên cạnh tiếng cười còn có những nỗi niềm u uẩn, những giọt nước mắt cho mình và cho vận mệnh đất nước .
                   Cuộc đời 37 năm của nhà thơ nằm gọn trong một giai đoạn đau thương nhất của lịch sử dân tộc: Đó là mất nước!    Năm 1897, Pháp đặt nền móng cai trị trên đất nước ta. Chế độ thực dân nửa phong kiến được xác lập, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển ở một nước thuộc địa đã làm đảo lộn trật tự xã hội, đảo lộn những giá trị tinh thần của dân tộc .
                      
                      I- THƠ ÔNG LÀ TIẾNG CƯỜI ĐẢ KÍCH SÂU CAY :

    1 - Đả kích bọn thực dân Pháp :

- Đó là hình ảnh những ông Tây, bà Đầm nghênh ngang, lố bịch
ở chốn trang nghiêm là trường thi :

                                            Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
                                            Váy lê quét đất mụ đầm ra .
                                                                    (Vịnh khoa thi Hương)

                                           Trên ghế bà Đầm ngoi đít vịt
                                            Dưới sân cụ Cử ngỏng đầu rồng .
                                                                           (Giễu người thi đỗ)

- Bọn thực dân với những trò gian ác, thủ đoạn nhơ bẩn để kiếm
 ăn :
                                           Người quên mất thẻ âu trời cãi
                                           Chó chạy ra đường có chủ lo
                                           Ngớ ngẩn đi xia may vớ được
                                           Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to .
                                                                                     ( Ông cò )

   2- Đả kích bọn quan lại làm tay sai cho giặc :

- Đó là một lũ dốt nát, bất tài, làm trò không khác chi phường
hát tuồng :
                   Sơ khảo khoa này bác Cử Nhu
                                           Thực là vừa dốt lại vừa ngu
                                           Văn chương nào phải là đơn thuốc
                    Chớ có khuyên xằng chết bỏ bu .
                                                               (Ông Cử Nhu)

                    Nào có ra chi lũ hát tuồng
                    Cũng hò cũng hét cũng y uông .
                                                                 (Hát tuồng)

- Bọn quan lại chuyên ăn chơi, cờ bạc,  hối lộ, vợ lớn vợ bé,
không hiểu trách nhiệm của mình trước nhân dân :

                                            Ông về đốc học chẳng bao lâu
                                            Cờ bạc rong chơi rặt một màu .
                                                                                (Chế ông Đốc học)

                                            Chữ “y” chữ “chiểu” không phê đến
                                            Ông chỉ quen phê một chữ “tiền” .
                                                                             (Đùa ông Phủ Xuân Trường)
                                             Ví cho thi đỗ làm quan lớn
                                             Thì cũng nhỏ to cưới chị hầu .
                                                                                       (Cảm hứng)
              Ngoài ra, còn cả một xã hội lố lăng với những phu nhân, các cậu ấm, sư sãi … cũng bị ngòi bút Tú Xương phê phán .

3- Đối với chế độ khoa cử và nền Nho học :

                - Đó là một nền Nho học đang suy tàn và hình ảnh trường thi thì không còn uy nghi, trang trọng như trước … Tất cả đang lùi dần trước uy thế của thực dân :
                                              Cái học nhà nho đã hỏng rồi
                                              Mười người đi học, chín người thôi .
                                                                                      (Than đạo học)
                                              Tấp tểnh người đi tớ cũng đi
                                              Cũng lều cũng chõng cũng đi thi .
                                                                                       (Đi thi tự vịnh)
                                              Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
                                              Ậm ọe quan trường miệng thét loa .
                                                                                  (Vịnh khoa thi Hương)
                 - Nhà thơ than thở cho số phận của các ông Nghè, ông Cống :
                                              Nào có ra gì cái chữ Nho
                                              Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co
                                              Chi bằng đi học làm ông Phán
                                              Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò .
                                                                                                (Chữ Nho)
                                              Khăn khăn, áo áo thêm rầy chuyện
                                              Bút bút, nghiên nghiên khéo giở trò .
                                                                                                  (Đêm buồn)

4-     Lên án mãnh lực của đồng tiền :

  - Đồng tiền đã làm xã hội đảo điên, đặc biệt là ở thành thị :
                                               Giàu sang âu yếm tình quen thuộc
                                                Bần tiện thờ ơ dạ bạc đen
                                                Ví khiến trong tay tiền bạc có
                                                Nói dơi nói chuột, chán người khen .
                                                                                                   (Thói đời)
                                                Kẻ yêu người ghét, hay gì chữ
                                                Đứa trọng thằng khinh, chỉ vị tiền .
                                                                                                (Thói đời)
          - Xã hội tha hóa nghiêm trọng, tình cảm cha con, chồng vợ… bị chà đạp :
                                                Nhà kia lỗi phép, con khinh bố
                                   Mụ nọ chanh chua, vợ chưởi chồng .
                                                                                (Đất Vị Hoàng)

                                   Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
                                    Đậu lạy quan xin nọ chú Hàn .
                                                                           (Phố Hàng Song)

- Những cảnh chướng tai, gai mắt cứ lần lượt xuất hiện trước mắt nhà
thơ :      
                                                Khăn là bác nọ to tày rế
                                                Váy lĩnh cô kia quét sạch hè
                                                Công đức tu hành sư có lọng
                                                Xu hào xủng xoảng mán ngồi xe .
                                                                                     (Năm mới)
              5- Đả kích những thói hư, tật xấu của xã hội :

 - Phê phán những người tu hành mà có hành vi xấu, thậm chí phảỉ
đi tù :
                                                Quảng đại từ bi cũng phải tù
                                                Hay là sư cũng vụng đường tu
                                                Tụng kinh cứu khổ ba trăm quyển
                                                Ý hẳn còn quên một phép phù .
                                                                                            (Sư ở tù)

- Phê phán những trò mê tín dị đoan, đồng bóng :
                                                Thấp thoáng bên đèn, lên bóng cậu
                                                Thướt tha dưới án, nguýt sư ông .
                                                                              (Ông sư và mấy ả lên đồng)
                                                Đồng giỏi sao đồng không giúp nước
                                                Hay là đồng sợ súng thần công .
                                                                                             (Lên đồng)
                 - Cuối cùng, nhà thơ đã mượn lời chúc Tết để thể hiện sự căm phẫn của mình đối với thực trạng xã hội và con người :
                                                Bắt chước ai ta chúc mấy lời
                                                Chúc cho khắp hết ở trong đời
                                                Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước
                                                Sao được cho ra cái giống người !
                                                                                             (Chúc Tết)
                II- THƠ ÔNG LÀ TIẾNG KHÓC VÀ NỖI ĐAU TRƯỚC VẬN MỆNH ĐẤT NƯỚC :

1- Tấm lòng của nhà thơ đôi với nhân dân lao động :
                                                Họ đày đọa mãi dân cày cuốc
                                                Ai xét soi cho cảnh học trò
                                                Mong được cơm no cùng áo ấm
                                                Gặp toàn nắng lửa với gió mưa .
                                                                                  (Thề với người ăn xin)
2- Nỗi đau xót của bản thân :

- Đau buồn, chán nản cho cảnh thi hỏng vì cuộc đờì của Tú
Xương luôn  gắn liền với nợ lều chõng :
                                                Học đã sôi cơm nhưng chửa chín
                                                Thi không ăn ớt thế mà cay …
                                                Một việc văn chương thôi cũng nhảm
                                                Trăm năm thân thế có ra gì !
                                                                                         (Hỏng thi)

- Gia đình lâm vào cảnh nghèo túng, có lúc phải chạy ăn, vay
  nợ :
                                                Van nợ lắm khi tràn nước mắt
                                                Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi .
                                                                                       (Than nghèo)
                                                Một tuồng rách rưới, con như bố
                                                Ba chữ nghêu ngao, vợ chán chồng .
                                                                                (Mùa nực mặc áo bông)

- Bà Tú đã phải tần tảo để nuôi chồng và năm con :
                                                 Lặn lội thân cò khi quãng vắng
                                                 Eo sèo mặt nước buổi đò đông .
                                                                                           (Thương vợ)

3- Nỗi đau day dứt trước thời cuộc và vận mệnh đất nước ;

- Tình cảm đối với dân tộc, sự mong đợi vào tầng lớp sĩ phu
 yêu nước :
                                                Nhân tài đất Bắc nào ai đó
                                                Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà !
                                                                               (Vịnh khoa thi Hương)
                                               Tình này ai thấu cho ta nhỉ
                                               Tâm sự năm canh một bóng đèn .
                                                                                         (Dạ hoài)
                  - Ông từng trăn trở, suy tư suốt đêm dài, mong cho trời mau sáng và kỳ vọng vào một sự đổi thay :
                                               Đêm sao đêm mãi tối mò mò
                                               Đêm đến bao giờ mới sáng cho …

                                               Hàng xóm bốn bề ai dậy chửa
                                               Dậy thì lên tiếng gọi nhà Nho .
                                                                                        (Đêm dài)
                                              Trời không chớp bể chẳng mưa nguồn
                                               Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn !
                                                                                       (Đêm hè)

- Nỗi niềm hoài cổ, nhớ khúc sông Vị Hoàng đã bị lấp đi đểmởTỉnh mà bản thân ông thì không làm gì để thay đổi thời cuộc được.
                                               Sông kia rày đã nên đồng
                                               Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai
                                               Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
                                               Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò !
                                                                                      (Sông lấp)
                                                Ai xui khiến vậy sông nên bãi
                                                Bỗng chốc xoay ra phố nửa làng .
                                                                                 (Vị Hoàng hoài cổ)
                - Khắc khoải trước vận nước nghiêng ngã, đôi lúc ông đâm ra lạc lõng, mất phương hướng :
                                               Năm canh thức suốt cả năm canh
                                               Nghĩ chuyện xa xa giật cả mình .
                                                                                         (Lo xa)
                                               Hỏi người chỉ thấy non xanh ngắt
                                               Đợi nước càng thêm tóc bạc phơ .
                                                                                    (Lạc đường)

                  - Lòng yêu nước của Tú Xương còn thể hiện qua sự kính trọng và khâm phục đối với những người tài đức ra cứu nước . Ông đã dành những vần thơ đầy cảm xúc trữ tình cho nhà cách mạng Phan Bội Châu :
                                              Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng
                                              Khi riêng, riêng cả đến tình chung .
                                                                                 (Nhớ bạn phương trời)
                                              Vá trời gặp hội mây trăm vẻ
                                              Lấp bể ra công đất một hòn .
                                                                             (Gửi cụ Thủ khoa Phan)
                 Đọc lại thơ Tú Xương, ta thấy thơ ông là tiếng nói của tầng lớp nho sĩ yêu nước , không cam tâm theo giặc nhưng cũng không đủ sức cầm vũ khí chống giặc . Thơ có hai nội dung : Trào phúng và trữ tình hòa quyện với nhau. Lời thơ châm biếm sâu cay nhưng chứa đựng chất trữ tình, ngược lại chất trữ tình bao giờ cũng pha chút cười cợt. Trong giọng điệu trào phúng  ấy, nhìn kỹ vào bên trong thì đó là cười ra nước mắt, những giọt nước mắt đã rơi vì nỗi nhục mất nước .
               Nhà thơ sử dụng ngôn ngữ giản dị nhưng vô cùng điêu luyện, tài tình. Vì vây, sự nghiệp văn chương của ông vẫn sống mãi với thời gian . Xin mượn lời ai điếu sau đây của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến như một nén tâm hương tưởng nhớ đến Người :   

                                                 Kìa ai chín suối Xương không nát
                                                 Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn .                       

                                                                                         LÊ NGỌC THẠC     
                                                        (PCN.CLB.Thơ Ca Mây Hồng TP. Cao Lãnh-Đồng Tháp)