HÀN MẶC TỬ
VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT
V ăn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945
đã đạt được những thành tựu vô cùng rực rỡ và xuất hiện nhiều tên tuổi lớn, trong đó có nhà thơ Hàn Mặc
Tử. Ông là nhà thơ nổi tiếng, là một trong những người khởi đầu cho
trào lưu thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam. Thơ ông được đánh giá rất
cao, một số bài được đưa vào sách giáo khoa để giảng dạy trong nhà
trường như: Đây thôn Vỹ Dạ, Mùa xuân chín...
Thế nhưng, khi nói về Hàn Mặc
Tử, người ta thường nhắc đến những bài thơ mới theo khuynh hướng lãng
mạn, rồi đến tượng trưng, siêu thực... mà ít đề cập đến mảng thơ
đường luật của ông.
Trong phạm vi bài viết này,
chúng tôi muốn cùng quý thi hữu tìm hiểu thêm- tất nhiên chỉ là bước
đầu- một số bài thơ đường luật của Hàn Mặc Tử. Từ đó, chúng ta có
thể hình dung một cách đầy đủ hơn con đường thơ của ông, một thi sĩ
tài hoa nhưng bạc mệnh.
I- VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI HÀN MẶC TỬ:
Hàn Mặc Tử (1912-1940)
tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22.09.1912 tại làng Lệ Mỹ,
TX.Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Ông lớn lên ở Qui Nhơn (Tỉnh Bình Định)
trong một gia đình theo Công giáo.
Thân phụ của ông là Nguyễn Văn
Toản, làm thông phán nên thường di chuyển nhiều nơi, do đó Hàn Mặc Tử
cũng theo cha và học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ (1920),
Qui Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923), trường dòng Pellerin Huế (1926)…
Hàn Mặc Tử có
năng khiếu thơ từ rất sớm, khi mới 14 tuổi, từng đạt giải nhất trong cuộc thi thơ ở một thi xã. Ông đã từng gặp cụ Phan
Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá nhiều từ nhà chí sĩ này. Thơ ông
được cụ Phan giới thiệu lên báo và họa vận 3 bài đường luật. Cũng
do mối quan hệ với cụ Phan Bội Châu nên ông đã bị xóa tên khỏi danh
sách đi du học ở Pháp.
Hàn Mặc Tử có thời gian làm
ở Sở Đạc điền Qui Nhơn (Tỉnh Bình Định), sau đó vào Sài Gòn lập
nghiệp. Đến Sài Gòn, ông phụ trách trang Thơ báo Công Luận, phụ trách
trang Văn báo Sài Gòn. Thơ ông đăng nhiều ở các báo: Phụ nữ Tân văn,
Tiếng dân, Công luận, Tân thời, Đông dương tạp chí, Người mới, Trong
khuê phòng, Sài Gòn...
Khi biết mình mắc bệnh phong,
một căn bênh nan y lúc bấy giờ; ông đã bỏ tất cả và trở về Qui Nhơn.
Hàn Mặc Tử thuê một chòi tranh ở Gò Bồi (cách Qui Nhơn 15km) để ở
và tuyệt giao với bạn bè. Tháng 9.1940, ông vào Bệnh viện phong Quy
Hòa điều trị, mang số bệnh nhân 1134. Hàn Mặc Tử đã qua đời tại đây
ngày 11.11.1940, khi mới 28 tuổi.
Cuộc đời Hàn Mặc Tử được biết đến
với nhiều mối tình. Có những người pḥu nữ ông đã gặp mặt, có
người ông chỉ giao tiếp qua thư từ. Có thể kể đến như: Hoàng Cúc,
Mộng Cầm, Mai Đình, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện...
Những mối tình đó đã để lại nhiều dấu ấn trong các tác phẩm của
ông.
- Các bút danh: Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh, Hàn Mạc Tử
(sau đổi thành Hàn Mặc Từ).
- Các tác phẩm: Gồm các tập thơ như Lệ Thanh thi tập, Gái quê, Đau thương, Xuân
như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên (2 vở kịch thơ), Chơi
giữa mùa trăng (thơ, văn xuôi)…
II- THƠ ĐƯỜNG LUẬT CỦA HÀN MẶC TỬ:
Thế giới thơ của Hàn Mặc Tử khá phức tạp. Ông đã đi từ thơ Đường luật cổ điển sang thơ mới theo khuynh hướng lãng mạn, rồi đến tượng trưng, siêu thực. Giai đoạn đầu, cảm xúc thơ trong sáng, lời thơ nhẹ nhàng, tứ thơ bình dị, chan chứa tình quê...Nhưng càng về sau, thơ ông đầy những cảm xúc lạ lùng, kinh dị, huyền bí thậm chí điên loạn và đượm màu sắc tôn giáo. Những đau đớn do căn bệnh hiểm nghèo hành hạ thể xác và tâm hồn đã để lại dấu ấn rõ rệt trong tác phẩm của ông.
Thơ đường luật của Hàn Mặc Tử được
sáng tác ở giai đoạn đầu, tập hợp chủ yếu trong Lệ Thanh thi tập.
Chúng tôi xin giới thiệu một số bài sau đây:
1- NĂM BÀI THƠ ĐƯỜNG LUẬT:
CHUYẾN ĐÒ NGANG THỨC KHUYA
(Đêm không ngủ)
Không hẹn hò sao gặp gỡ đây? Non sông bốn mặt ngủ mơ màng
Người thời như tỉnh, kẻ như say Thức chỉ mình ta dạ chẳng an
Trong veo làn nước soi đôi mặt Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Xa tít quê nhà trỏ một tay Gió thu lọt cửa cọ mài chăn
Tâm sự mới trao bờ đã đến Khóc giùm thân thế hoa rơi lệ
Nỗi niềm chưa cạn khách về
ngay Buồn giúp công danh dế dạo đàn
Ba sinh duyên nợ âu là thế Trỗi dậy nôm na vài điệu cũ
Một chuyến đò đưa nghĩa một
ngày. Năm canh tâm sự vẫn chưa tàn.
CHÙA HOANG BUỒN THU
Chùa không sư tụng cảnh buồn teo Ấp úng không ra được nửa lời
Xác Phật còn đây chuỗi Phật
đâu? Tình thu bi thiết lắm thu ơi!
Réo rắt cành thông thay kệ đọc Vội
vàng cánh nhạn bay đi trớt
Lập lòe bóng đóm thế đèn treo Hiu hắt hơi may thoảng lại
rồi
Hương sầu khói lạnh nằm ngơ
ngác Nằm gắng đã không thành mộng được
Vách chán đêm suông đứng dãi
dầu Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi
Rứa cũng trơ gan cùng tuế
nguyệt Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt
Bên thềm khắc khoải tiếng quyên
kêu. Chỉ
có thông kia chịu với trời.
GÁI Ở CHÙA Giới thiệu bài họa Thức khuya
của cụ
Phan Bội Châu
Rừng Thiền thấp thoáng dáng
quần thoa Chợ lợi trường danh tí chẳng
màng
Khuê các trâm anh cũng rứa
à? Sao ăn không ngọt, ngủ không an
Mùi tục chưa chi mà vội
chán Trăm năm ngán đó tuồng dâu bể
Cuộc đời mới thế đã lo xa Muôn họ nhờ ai bạn chiếu chăn
Lạt mùi son phấn say mùi
đạo Cửa
sấm gớm ghê người đánh trống
Chán cảnh phồn hoa mến cảnh
chùa Tai trâu mỏi mệt khách đưa đàn
Dì Nguyệt trớ trêu lòng dạ
thiểm Lòng sen đằng đẵng tơ sen
vướng
Trăm năm nỡ để thiệt thòi hoa! Mưa gió bao phen gội chẳng
tàn.
2- ĐÔI ĐIỀU CẢM NHẬN:
- Về bài thơ Chuyến đò ngang: Có lẽ không ai nghĩ là của một cậu bé 14
tuổi đã viết sau những chuyến qua đò đi học. Cảm
xúc thơ thật mới lạ, trong sáng nên khi đọc ta cảm thấy ý thơ không
bị nhốt trong cái lồng thơ quen thuộc và cũ kỹ. Hai câu:
Trong
veo làn nước soi đôi mặt
Xa tít quê nhà trỏ một tay...
đã vẽ ra một không gian mênh
mông, xa mờ từ con đò ngang đưa cậu bé mỗi ngày đi học. Con đò tuổi
thơ ngày ấy đã dự báo một tài năng xuất chúng.
- Ba bài thơ Thức khuya, Chùa hoang, Gái ở chùa được đăng trên Thực
nghiệp dân báo năm 1931. Hàn Mặc Tử ( bút hiệu lúc
bấy giờ là Phong Trần ) mới 19 tuổi. Cụ Phan Bội Châu đã khen ngợi: “Từ về nước đến nay, được xem nhiều thơ văn quốc âm, song chưa gặp
được bài thơ nào hay đến thế. Hồng Nam nhạn Bắc, ước ao có ngày gặp
gỡ để bắt tay nhau cười to một tiếng, ấy là thỏa hồn thơ tôi đó!”
- Trong thơ đường luật của Hàn Mặc Tử, chúng ta thấy phảng phất khẩu khí
và giọng điệu “ưu thời mẫn thế” kiểu như
Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Tú Xương ...
Non sông bốn mặt ngủ mơ màng
Thức chỉ mình ta dạ chẳng
an...
Khóc giùm thân thế hoa rơi lệ
Buồn giúp công danh dế dạo
đàn...
(Thức
khuya)
Cũng giống như tâm sự
của các nhà nho yêu nước trước cảnh quê hương chìm trong bóng đêm nô
lệ, luôn trăn trở, băn khoăn cùng thế sự.
Nằm gắng đã không thành mộng được
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn
thôi...
(Buồn thu)
Khắc khoải năm canh quyên nhớ nước…
Giấc điệp mơ màng vùng trỗi
dậy
Vừa toan tính đó có ai hay...
(Canh khuya cảm tác-Không giới thiệu
toàn bài)
- Ông có cách nhìn đời rất
nhân văn, luôn sống và cảm thông với mọi người, cả những người con
gái ở chùa.
Dì
Nguyệt trớ trêu lòng dạ thiểm
Trăm năm nỡ để thiệt thòi
hoa!
(Gái ở chùa)
Khó có thể tin rằng, Hàn Mặc Tử khi ấy mới 19 tuổi, cái tuổi mà thời đó người ta còn xem là
thiếu niên.
- Về cách sử dụng ngôn ngữ:
Tuy hình thức thơ cũ, nhưng ông đã sử dụng những từ ngữ mang nội dung
hoàn toàn mới.
Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài
chăn...
(Thức
khuya)
Với những từ leo song, sờ sẫm, lọt cửa, cọ mài..., Hàn
Mặc Tử đã mang đến cho trăng gió, gối chăn- vốn là những hình ảnh
sáo mòn- một nội hàm hoàn toàn mới: Sống động, gợi cảm, xác thịt
hơn... Ông đã đem thơ bước sang một giai đoạn mới bằng những câu thơ
hoàn toàn mang hơi thở lạ, thoát khỏi vòng luân lý, đạo đức của
những năm 30 thế kỷ trước.
Réo
rắt cành thông thay kệ đọc
Lập lòe bóng đóm thế đèn
treo
Hương sầu khói lạnh nằm ngơ ngác
Vách chán đêm suông đứng dãi dầu...
(Chùa hoang)
Những từ réo rắt, lập lòe, bóng đóm, hương
sầu, khói lạnh, vách chán, đêm suông, nằm ngơ ngác...đã gợi cái
vắng lặng, khuya khoắt của một xóm thanh lâu hơn là cảnh thanh tịnh,
đầy vẻ từ bi của nhà chùa! Cảnh chùa đã hoang, lại thêm không sư nhưng còn có Xác Phật, thật
là tinh quái và phạm thượng biết bao! Có nhà nghiên cứu cho đây
là sự phạm thượng của một thiên tài. Hàn Mặc Tử đã làm một
cuộc cách mạng ngôn từ và tư tưởng như vậy trong thơ đường luật.
Nhìn chung, số
lượng thơ đường luật của Hàn Mặc Tử không nhiều; nhưng đây lại là
cột mốc quan trọng trên con đường thơ của một thiên tài. Ngay từ những
bài thơ đường luật chặt chẽ về niêm luật, chúng ta đã thấy xuất
hiện những nụ mầm mới lạ về ngôn từ và tư tưởng. Những nụ mầm ấy
đã nở thành những đóa hoa lung linh hương sắc ở giai đoạn tiếp theo
và để lại cho đời những thi phẩm sống mãi với thời gian.
x
x
x
Tôi đã về thăm đất Qui Nhơn, đứng lặng
bên mộ Hàn Mặc Tử trên đồi Thi Nhân (Ghềnh Ráng), ngậm ngùi tiếc
thương một con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Ông ra đi khi tuổi đời còn
quá trẻ và sự nghiệp văn chương cũng vừa mới bắt đầu.Thế nhưng, qua
chặng đường thơ khoảng 10 năm của mình, thi sĩ đã trở thành
một trong những người khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt
Nam với những vần thơ xuất thần, bất hủ. Không chỉ có vậy, ông còn
để lại trong trái tim của hàng triệu người hâm mộ cả nước sự nuối
tiếc và tình cảm mến thương vô hạn.
Xin mượn lời nhận xét sau đây của nhà
thơ Chế Lan Viên để thay lời kết:
“Mai sau, những cái
tầm thường, mực thước kia sẽ biến đi và còn lại của cái thời kỳ
này chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử.” (Chế Lan Viên, Báo Người mới số 5,
23.11.1940)
LÊ NGỌC THẠC
PCN.CLB.Thơ Ca Mây hồng TP. Cao
Lãnh-Đồng Tháp